Thứ Tư, 31 tháng 5, 2017

Bố trí phòng tắm theo phong thủy

Phòng tắm được xem là nơi cư ngụ của những điều không may trong phong thủy, đây là một thực tế. Tuy nhiên, bạn có thể thay đổi điều này, với chỉ một chút nỗ lực. Áp dụng lời khuyên phong thủy dễ dàng và ngừng lo lắng về phong thủy xấu trong phòng tắm của bạn.
Tôi đã đưa ra nhiều lời khuyên để giúp bạn tạo ra phong thủy tốt trong phòng tắm của bạn, cũng như đối phó với những thách thức đối với vị trí phòng tắm - từ một phòng tắm trong khu vực tiền vào một phòng tắm phía trên cửa trước. Trợ giúp ở đây, không cần phải lo lắng, chỉ cần làm những việc sau đây.
Phương vị nhà vệ sinh không tốt cần cải tạo như thế nào?
Theo phong thuỷ nhà ở mà nói, hung tướng mà nhà vệ sinh dẫn đến là vô cùng nguy hại. Đặc biệt là ở hướng Bắc của nhà ở, hoặc ở hướng Đông Bắc (còn gọi là hậu quỷ môn) mà đặt nhà vệ sinh, thì sẽ dẫn đến kết quả không hay.
Để cho nhà vệ sinh át được hung tướng, thì tốt nhất bạn nên đặt nó ở hướng Tây Bắc, Đông Nam hoặc phương vị Đông (xét từ trung tâm của căn nhà). Đồng thời, cũng cần phải tránh phương vị xung khắc với tuổi của nam nữ chủ nhà.
Nếu như nhà vệ sinh ở hướng Bắc hoặc phương vị Đông Bắc, nhất thiết phải chuyển sang vị trí khác. Chỉ cần tránh trung tâm Bắc 15 độ (phạm vi của Tử). Hướng Đông Bắc, thì chỉ cần tránh Bắc Đông 15 độ (phạm vi của Sửu) và trung tâm Đông Bắc 15 độ (phạm vi của Cấn). Nếu như cả nhà vệ sinh đều nằm ở phương vị Bắc hay Đông Bắc, chỉ cần di dời vị trí của bồn cầu đến phương vị cách đó 15 độ là được. Nếu như bồn cầu thuộc phạm vi này, thì chỉ cần di dời bồn cầu chứ không cần xây lại nhà vệ sinh.
Ngoài phương vị Bắc, Đông Bắc, phương vị Tây Nam cho nhà vệ sinh cũng thuộc hung tướng. Nếu cần di dời, chỉ có thể dời từ hướng Tây Nam sang Tây Bắc.
Nhà vệ sinh thuộc hướng Tây cũng không tốt lắm, có điều chỉ cần không phải là người tuổi Dậu, hoặc không có phụ nữ đang chuẩn bị kết hôn thì không cần phải lo lắng. Người cầu toàn thì có thể di dời bồn cầu đến Tây Bắc (phạm vi Nhâm hoặc Quý).
Không nên có nhà vệ sinh phía Nam, ảnh hưởng đến vận khí. Nếu như có, tốt nhất dời đến phương vị Đông, Đông Nam, Tây Bắc. Không được thiết kế nhà vệ sinh gần khu thờ cúng, không thì sẽ biến thành hung tướng.
Vị trí nhà vệ sinh ảnh hưởng đến may mắn gia đình

Nhà vệ sinh không được đặt ở trung tâm căn nhà
Có 3 nguyên nhân. 1 là, theo “lạc thư” có viết thì phương vị trung tâm thuộc Thổ, còn nhà vệ sinh thuộc Thuỷ, nếu đặt ở vị trí trung tâm sẽ phát sinh Thổ khắc Thuỷ. 2 là, không khí và nước ô nhiễm từ nhà vệ sinh từ trung tâm lan ra các phòng. 3 là, trung tâm của căn nhà cũng như trái tim con người, tim mà bị ô nhiễm, thì còn có thể gọi là “cát trạch” không?
Phòng ngủ cải tạo từ nhà vệ sinh cũ:
Bởi vì người đông đất chật, nhiều gia đình sửa nhà vệ sinh thành phòng ngủ. Mặc dù tiết kiệm được không gian nhưng lại phạm phải sai lầm phong thuỷ, nghiêm khắc mà nói thì không hợp vệ sinh. Nhà vệ sinh là không sạch sẽ, cần phải tránh nằm gần kề phòng ngủ, càng không thể sửa thành phòng ngủ. Như vậy căn bản không phù hợp yêu cầu vệ sinh, thuỷ hoả bất dung.
Nhà vệ sinh không nên nằm ở hướng Nam
Điều này có liên quan đến phương vị bát quái, phương Nam là Li quái, ngũ hành thuộc Hoả, còn nhà vệ sinh lại thuộc Thuỷ. Nhà vệ sinh hướng Nam, khắc chế Hoả địa, cũng như là Bát tự của người xung khắc Lưu niên Thái Tuế, bởi vậy không may mắn.

Hướng nhà không nên cùng hướng bồn cầu
Ví dụ cửa chính căn nhà hướng Nam, thế thì hướng của bồn cầu không được hướng Nam, không thì dễ sinh bệnh cho chủ nhà. Trước mắt chưa có cuộc điều tra rõ ràng về vấn đề này, nhưng tránh được thì nên tránh.
Nhà vệ sinh không nên nằm ở cuối hành lang
Nếu như nhà bạn có hành lang tương đối dài, cần chú ý sao cho nhà vệ sinh nằm ở bên cạnh hành lang chứ không được để ở cuối hành lang, nếu không phạm phải tướng đại hung, có hại cho sức khoẻ con người.

Nhà vệ sinh phải có cửa sổ, tốt nhất là đủ ánh sáng, không khí lưu thông.
Nguyên nhân rất đơn giản, nhà vệ sinh là nơi thường xuyên ẩm thấp dễ gây nên ẩm mốc, đồng thời cũng là nơi chúng ta thường dùng để tẩy rửa tạp chất và xú uế. Do vậy nhà vệ sinh nhất thiết phải có cửa sổ hoặc cửa thông gió, đủ ánh sáng và không khí lưu không để cho mùi hôi bay đi, duy trì không khí trong sạch. 
Nhà vệ sinh của biệt thự:
Thường thì khi thiết kế người ta thường nhớ đến sự phối hợp giữa các gian phòng trong cùng một tầng mà lại quên mất mối quan hệ giữa các tầng. Nếu như nhà vệ sinh nằm trên phòng ngủ thì trạch tướng vô cùng nguy hại, sức khoẻ người ở sẽ giảm sút.

Theo nguyên lí “gia tướng học” Hồng Kông cổ truyền, thì nền nhà vệ sinh không được cao hơn phòng ngủ. Ngũ hành gia cho rằng, nước chảy xuống dưới, làm ẩm kết cấu bên dưới, về lâu dài phòng ngủ bị ẩm thấp, dễ phát sinh các bệnh hệ thống nội tiết. Nếu như nhất quyết phải đặt trên lầu, thì bạn nên thiết kế kéo rộng khoảng cách với phòng ngủ.

Thứ Bảy, 27 tháng 5, 2017

Hưng Định - làng gốm cổ truyền thống tại Bình Dương

Là một phường thuộc Dĩ An, Bình Dương. Hưng Định được biết đến là một trong những làng nghề nổi tiếng song song với làng gốm Lái Thiêu và Tân Phước Khánh tại tỉnh. Hưng thịnh phát triển trong cả một giai đoạn lịch sử nhưng hiện nay việc làm gốm tại làng đang dần bị mai một đi vì nhiều lí do….

Khoảng thế kỉ 18, nơi đây bắt đầu có cư dân đến định cư và lập nghiệp. Đến đầu thế kỉ 19, Hưng Định được nhà Nguyễn cho phép lập làng. Hưng Định ngày nay bao gồm ba khu phố Hưng Lộc, Hưng Thọ và Hưng Phước, nơi đây nổi tiếng với các lò gốm cổ mà tập trung nhiều nhất là ở Hưng Lộc. Hưng Lộc nổi tiếng với lò gốm Chòm Sao (người dân ở đây gọi là lò chén Chòm Sao)  do các thợ gốm Triều Châu dựng lên. Nơi đây chuyên sản xuất các loại bát, đĩa men trắng tráng men và vẽ hoa văn rồng, phượng, gà, hoa…Sau một thời gian, một số nhóm người khác cũng đến định cư trong đó có nguời Hẹ, chính họ đã lập ra các lò gốm.
Lý giải cái tên gốm Chòm Sao, bác Chín Hoàng (thợ gốm xưa của lò gốm Hai Ca) cho biết: “Ngày xưa ở đây có cây sao cổ thụ to lắm, từ đời ông cố bác đã có rồi, đến đời bác chỉ còn gốc cây chẻ ba mà cũng phải vài ba người ôm mới hết, lò gốm lập ra trên vùng đất này đều lấy tên chung là gốm Chòm Sao, chỉ phân biệt dựa vào tên hiệu của người chủ lò gốm".
Gốm Chòm Sao có hai lò gốm cổ nổi tiếng là lò của ông Hai Ca và Ba Sành, chuyên sản xuất các loại chén, dĩa, tô, thạp và các mặt hàng mĩ nghệ  hình các con vật như voi, ếch, lân, cá …cung cấp cho các thương lái đưa đi các nơi buôn bán. Cho đến hôm nay thì hai lò gốm nổi tiếng này đã không còn giữ được, lò gốm Hai Ca chỉ còn lại một đống phế tích đổ nát, còn lò gốm Ba Sành đã bị phá bỏ để xây phòng trọ, nhà ở.
Gốm được chế tác với sự tập trung cao độ

“Từ thời ông cố đã theo nghề gốm, hồi xưa, một người làm gốm có thể nuôi được năm người, cất nhà…Gốm ngày xưa thịnh lắm, hàng làm ra không đủ cho thương lái, có khi phải đặt trước mấy tháng trời. Chủ gốm chủ yếu là nguời Hoa, họ trọng cái tình, ngày nào cũng  nấu hai nồi một cơm một cháo thật lớn để thợ gốm hay người nhà không nấu được đến lấy về ăn, có khi ngày đó đau ốm không đi làm cũng đến lấy cháo được. Bây giờ  làm gốm không nuôi đủ con cái đi học, đang làm mà nghỉ có khi còn bị trừ lương, mất việc…” _ bác Chín Hoàng chia sẻ.
Tâm sự về nghề làm gốm, bác Tư Chuối, con trai ông Hai Ca, chủ lò gốm cỏ Hai Ca xưa cho biết: “Nghề gốm như máu huyết của mình, một khi đã ngồi vào bàn gốm là như quên hết. Bàn tay nặn gốm không chỉ đơn thuần là nắn đất thành gốm mà như thổi vào nắm đất cái hồn, cái thần thái của người thợ làm ra nó, chưa vừa ý là chưa rời bàn, vì thế sản phẩm làm ra không nhiều nhưng chất lượng. Nhìn vào một sản phẩm là có thể đánh giá được đó là thợ giỏi lâu năm hay thợ mới. Gốm hắn cũng kén người, có người học cả mấy năm trời mà cũng không làm sao thổi hồn được cho sản phẩm của mình”.
Khi được hỏi vì sao đóng cửa lò gốm Hai Ca, bác Tư Chuối  buồn buồn chia sẻ: “Cái nghề cơm gạo sao đành lòng bỏ được, nhưng bất tòng tâm, lớn tuổi rồi mà con cái không ai theo nghề,  người ta làm gốm bây giờ phải trang bị máy móc hiện đại, mình không có vốn, không trụ lại với người ta, thêm vào đó người ta không chuộng gốm cổ nữa rồi, chỉ dùng gốm mới với các hoa văn làm từ máy tinh xảo, gốm trắng tinh, không có người mua, dù có cố làm thì sớm muộn cũng dẹp vì đọng hàng, hết vốn…”

Hiện nay, gốm Hưng Định chỉ còn sót lại vài ba hộ còn theo nghề, tự cứu mình bằng cách bỏ vốn trang bị máy móc hiện đại như lò gốm Tân Trường Sinh, lò gốm Kiến Xuân, chuyển từ làm chén, dĩa… sang làm thạp, bình hoa, chậu, lư hương, bóng ,các con vật trang trí như voi, ếch, lân…
Một số  khác chuyển sang làm chén mủ cao su như lò gốm Cuội của ông Lý Thành. Một số lò vẫn giữ lại sản xuất một phần nhỏ các loại chén , dĩa cổ như lò Bình Lị, Ba Tây.

Ngày xưa, các thành phẩm sau khi được tráng men sẽ đem vào lò nung, chất đốt chủ yếu là củi, bây giờ chuyển sang nung bằng ga, để chất lượng sản phẩm được cao hơn, lớp men bóng hơn. Tuy nhiên, ở lò Cuội của ông Lý Thành vẫn giữ được lò nung bằng củi có lịch sử trên 150 năm tuổi.
Tuy bị cuốn vào vòng xoay công nghiệp hóa nhưng các thợ làm gốm ở Hưng Định vẫn luôn giữ được cái tâm của người theo nghề. Họ một lòng mong muốn giữ lại cái nghề của cha ông. “Đến giờ dù nghỉ có gần hai chục năm nhưng mỗi lần thấy cái bàn xoay, thấy đất là bàn tay lại không yên, muốn trở lại làm gốm lắm, có chết tui cũng làm dù là làm thuê cho người ta cũng được nhưng không ai thuê vì mình già rồi, tay run, chân đứng lâu không vững, quen làm thủ công giờ chuyển sang máy không theo kịp tụi trẻ.” Bác Chín Hoàng, Tư Chuối rưng rưng tâm sự.
Gốm Hưng Định không chỉ là một ngành nghề thủ công truyền thống mà còn là  một nét đẹp văn hóa của người dân Bình Dương nói riêng và Việt Nam nói chung. Để tiếp tục tồn tại và phát triển cần sự quan tâm của các nhà chức trách và cơ quan có thẩm quyền.

Tự hào sự phát triển gốm Tân Phước Khánh

Làng nghề gốm Tân Phước Khánh cách thị trấn Thủ Dầu Một khoảng chục cây số. Đây là một trong ba trung tâm gốm sứ lớn của Bình Dương với hơn 300 năm lịch sử. Trong dịp kỷ niệm vàng năm 2000, đã có hơn 100 lò gốm trong làng này. Sản phẩm Tân Phước Khánh được xuất khẩu sang nhiều nước châu Âu. Nhiều gia đình giàu có nhờ đồ gốm.

Nghề gốm sứ xuất hiện ở Tân Phước Khánh từ giữa thế kỷ 17 khi một thương nhân người Hoa tình cờ đến Tân Uyên đã phát hiện ra loại đất quý màu trắng có thể làm gốm. Vị thương nhân này đã định cư rồi đưa nhiều người đến đây cùng mở các lò sản xuất gốm sứ dọc theo con suối Hố Đại. Đến đầu những năm 30 của thế kỷ 20, Tân Phước Khánh đã có khoảng hơn 10 lò gốm thủ công với sản phẩm: bát, dĩa, ấm chén, chậu hoa, chân đèn, bình, lọ, tượng người, tượng thú, đôn hình con voi, bình hoả...

Ngày nay, ngoài nguồn nguyên liệu đất sét có sẵn trong vùng, người làm gốm ở Tân Phước Khánh còn lấy từ nhiều vùng khác: đất caolin ở Bến Cát, Thuận Giao, Tân Uyên (Bình Dương) và Đà Lạt. Ban đầu, đất được đem phơi nắng cho rỏ phèn, rồi ngâm qua hai lần nước, lọc bỏ phần xác, lấy phần nhựa, trước khi nhồi cho thật nhuyễn, tạo thành hồ. Sau đó, hồ được đổ vào khuôn theo kích cỡ đủ loại sản phẩm đã được làm sẵn bằng thạch cao. Khoảng một ngày thì gỡ khuôn ra sẽ cho sản phẩm gốm thô.
Công đoạn tráng men cần người thợ lành nghề để có thể tráng những lớp men đều và vừa đủ. Ở lò gốm Vạn Phú, hầu hết người thợ đều có thâm niên hàng chục năm trong nghề. Ông Trần Quang, người hơn 40 năm làm gốm cho biết, để ra được một sản phẩm đẹp, cần phải thạo việc, tỉ mỉ ở các khâu cắt gọt, tráng men. Riêng công đoạn nung gốm bằng củi lại đòi hỏi thợ phải giỏi nghề và có kinh nghiệm mới canh đúng lửa cho ra những sản phẩm gốm có màu sắc đẹp. Nếu như nung củi một mẻ gốm sứ là 3 - 5 ngày thì nung bằng gas sẽ rút ngắn đáng kể thời gian.
 
Gốm Tân Khánh được tin yêu
Gốm sứ Tân Phước Khánh hiện chủ yếu sản xuất để xuất ngoại, bình quân hàng tháng một cơ sở gốm sứ cho ra lò từ 10.000 - 20.000 sản phẩm xuất khẩu, thị trường chủ yếu là các nước châu Âu. Sản phẩm gốm sứ Tân Phước Khánh cũng từng tham gia nhiều cuộc triển lãm gốm sứ ở nước ngoài. Nhiều công ty gốm sứ của Đức, Anh, Canada, Trung Quốc còn mở văn phòng đại diện tại Việt Nam để tiện giao dịch.


Là cái nôi gốm sứ của Bình Dương, Tân Phước Khánh có nhiều nghệ nhân đã cống hiến tâm huyết cả đời để tạo nên nghề truyền thống trên quê hương mình. Có thể kể đến các nghệ nhân là chủ các lò gốm ở Tân Phước Khánh, là người nắm giữ cả kho kinh nghiệm và những bí quyết gia truyền trong sản sản xuất và tạo màu men như ông Tạ Quốc, Vương Cần, Vương Quýt, Vương Hòa Hiệp… Trải qua rất nhiều thăng trầm của lịch sử phát triển, gốm Tân Phước Khánh vẫn vươn lên và dành được nhiều sự quan tâm từ phía người sử dụng./.

Thứ Ba, 23 tháng 5, 2017

Tương khắc Ngũ hành và treo tranh cho người mệnh Thủy

Trong phong thủy, treo đúng tranh phong thủy theo sốmệnh có thể thúc đẩy một luồng năng lượng tốt và tăng cường cảm xúc tích cực trong nhà ngoài ra còn tô lên vẻ đẹp của chính căn phòng. Vì thế, để chọn được một bức tranh vừa đẹp, vừa phù hợp với bản thân là một câu hỏi với nhiều người. Vậy, đối với người mệt Thủy thì chúng ta nên treo tranh gì? Khi nhắc đến mệnh Thủy ai cũng nghĩ ngay đến nước. Mệnh Thủy là cung mệnh tượng trưng cho nguồn năng lượng tươi mới, trong sạch và vô cùng tĩnh lặng. Chính vì vậy khi chọn một bức tranh phong thủy mệnh thủy bạn nên chọn những bức tranh về vẻ đẹp thiên nhiên có gắn liền với nước như sông, suối, biển, hồ. Những bức tranh đó sẽ mang lại những may mắn và thuận lợi cho bạn.
Ngoài những bức tranh đẹp về sông, suối, biển, hồ thì người mệnh thủy có thể dùng những màu sắc khác như xanh thiên thanh hay màu đen.

Màu xanh thiên thanh: Xanh thiên thanh hay còn được gọi dưới cái tên khác là xanh da trời. Đây là sắc màu thể hiện sự nguy nga và long lanh trong tất cả các màu sắc. Có rất nhiều sắc xanh của màu xanh thiên thanh đó có thể là từ xanh nhẹ nhàng của bầu trời đến màu xanh đậm của biển cả. Nhưng tựu lại, theo phong thủy xanh thiên thanh mang đến sự thoải mái và tươi trẻ. Màu sắc này trong phong thủy thích hợp với cung Tài Lộc và Gia đạo. Đối với người mệnh thủy, màu xanh sáng sẽ tốt cho việc mở rộng của cải trong khi đó màu xanh sậm lại biểu hiện cho sự điềm tĩnh và sâu lắng. Ngoài ra khi kết hợp giữa trắng và xanh thiên thanh sẽ mang đến hạnh phúc cũng như sức sống bất tận.
Tranh sơn thủy là một lựa chọn phù hợp


Màu đen:  Màu đen mang đến một vẻ gì đó vô cùng huyền bí, màu đen chính là đại diện cho nguồn năng lượng thực tế và kỳ ảo.

Ngoài ra màu đen còn đem đến sự bảo vệ an toàn cũng như sức mạnh. Màu đen là màu thuộc về ban đêm hay những vũng nước sâu thẳm ở dưới đáy đại dương. Còn màu đen trong phong thủy chính là sự sâu lắng, là sức mạnh và là việc định rõ ranh giới không gian. Nếu bạn sử dụng sắc đen với một tỷ lệ quá lớn thì nó có thể đem lại cho bạn những cảm giác vô cùng nặng nề, nhưng đó chỉ là nếu thôi bạn nhé. Còn màu đen vẫn là một màu không thể thiếu được trong phong thủy và đôi khi nó chính là điểm nhấn trong một tổng thể hoàn chỉnh.

Treo tranh theo xung khắc Ngũ hành không phải là mê tín mà là một bộ môn khoa học đã được kiểm chứng và được đông đảo sự  tán thành của người phương Đông. Một bức tranh treo tường phù hợp cho người mệnh Thủy sẽ mang lại tài, lộc cho chủ nhân của nó. Và chúng tôi cũng hi vọng qua những chia sẻ trên các bạn sẽ tìm được bức tranh phù hợp cho chính bản thân mình!

Thứ Hai, 22 tháng 5, 2017

Những việc cần làm khi chuyển nhà

Chuyển nhà là điều mà hầu hết chúng ta sẽ làm nhiều lần, nếu không phải là hàng chục lần trong cuộc sống . Điều quan trọng là cố gắng làm cho những dịp này trở nên bớt căng thẳng cũng như xua đi khí xấu, tận dụng toàn vẹn khí tốt cho gia đình.

Có một vài điều mà hầu hết mọi người có xu hướng rời đi cho đến phút cuối mà thực sự nên làm tốt trước khi di chuyển nhà. Chúng tôi đã tổng hợp một danh sách gồm những điều bạn cần làm trước khi bạn di chuyển nhà.
Chọn ngày lành tháng tốt

Việc chọn ngày lành tháng tốt để chuyển nhà là việc làm quan trọng nhất. Thông thường khi chuyển nhà nên chọn ngày “Thủy”, tránh chọn ngày “Hỏa”, việc này có thể nhờ đến thầy phong thủy hoặc những người có kinh nghiệm. Ngày này phải được tính dựa theo 2 yếu tố chính là lịch âm và ngày tháng năm sinh của người trụ cột gia đình để lấy kết quả tốt nhất.
Ngoài chọn ngày lành tháng tốt bạn cũng rất cần chú ý đến giờ đẹp trong ngày để thực hiện việc chuyển nhà. Theo quan niệm dân gian, việc chuyển nhà nên hoàn thành trước 15h (3 giờ chiều) trong ngày. Việc chuyển nhà vào ban đêm sẽ ảnh hưởng không tốt đến vận khí của gia chủ.

Cúng thổ địa và thần linh

Và một việc vô cùng quan trọng mà bạn không được quên đó là trong ngày chuyển nhà, buổi chiều hôm đó phải thắp hương thổ thần, thổ địa vì đây chính là vị thần của mỗi căn nhà. Nên cầu thổ thần, thổ địa phù hộ độ trì cho gia chủ bình an. Mâm lễ dâng Thần linh, Gia Tiên ngày nhập trạch được bày biện trang trọng gồm: Trầu cau, hương, hoa, vàng mã, mùa nào quả ấy, bánh kẹo và mâm lễ mặn: rượu, thịt, xôi, gà…

Trên đây là những phép tắc rất cần lưu ý khi bạn chuyển đến nhà mới. Những nghi lễ này sẽ góp phần gìn giữ sự hanh thông, bình an cho gia đình bạn, bách bệnh không phát sinh, tài vận tiến đến, cả nhà vui vẻ. Bạn và gia đình sẽ có một cuộc sống hạnh phúc ở ngôi nhà mới.

Xông nhà để xua đi chướng khí

Xông nhà sẽ giúp xua đi chướng khí tích tụ lâu ngày trong nhà và đuổi các loại côn trùng có hại. Thuốc xông là hỗn hợp các loại rễ cây, hương liệu, bột trầm hương và nhang thơm. Sau khi mua về, hãy đốt vào cái siêu đất để khói bay ra từ vòi, dễ cầm mà lại tránh bỏng tay. Khi làm, nên mở hết cửa chính lẫn cửa sổ, để các khí xấu theo làn khói bị đẩy ra khỏi nhà.

Xông theo nguyên tắc từ trên xuống dưới và từ trong ra ngoài. Chú ý xông kỹ những góc tường hứng nước mưa nhiều, ẩm mốc cao. Khi xông, hãy bật đèn lên để tăng thêm nhiệt khí, dương khí.

Chiếu và bếp nấu là những vật đầu tiên cần mang vào nhà trước

Theo quan niệm người xưa thì khi vào nhà mới, vật đầu tiên mang vào nhà là cái chiếu đang sử dụng, sau đó là bếp lửa, tuyệt đối không nên mang bếp điện, chổi quét nhà, nước…vào nhà trước.

Đồ đạc trong nhà phải do người trong gia đình tự tay dọn chuyển mang đến nhà mới. Bài vị cúng Gia Thần, Tổ Tiên phải do gia chủ tự tay cầm đến nhà mới. Còn những người khác trong gia đình thì đi theo sau, tay cầm tiền của mang đến nhà mới.
 
Phải luôn đóng gói sẵn sàng
Đun nước sôi, mở vòi nước cho chảy

Vào ngày đầu tiên dọn vào nơi ở mới, gia chủ nhất định phải đun một ấm nước sôi. Mục đích nhằm giúp cho nguồn tài của gia đình được sôi động, dồi dào. Đồng thời, cần phải đậy các bồn rửa bát, bồn tắm trong nhà. Sau đó, mở thật nhỏ vòi nước để nước chảy thật chậm và trong khoảng thời gian thật lâu. Điều này tượng trưng cho vạn sự như ý, đầy đĩa đầy bát, no đủ. Trong các phòng trong nhà, có thể bật tất cả quạt cho gió thổi các hướng, nhưng lưu ý không được để gió thổi ra hướng cửa chính.

Treo chuông gió để dẫn dắt khí luân chuyển trong nhà

Bạn hãy treo phong linh (chuông gió) ở một số nơi trong nhà. Quan niệm phong thủy cho rằng, chuông gió là công cụ dẫn dắt khí luân chuyển trong nhà, thường được treo ở các cửa ra vào hay cửa sổ. Tốt nhất, bạn nên chọn chuông gió bằng kim loại, phát ra âm vực cao.

Người xưa quan niệm rằng, âm thanh của kim khí có khả năng xua đi tà ma, dịch bệnh, mang lại may mắn, báo hiệu đã có người cư ngụ, dương khí đã đến vùng đất này, “người âm” hãy tránh xa. Không những thế, khi nghe âm điệu phát ra từ chuông gió, tâm trạng con người sẽ vui tươi, hưng phấn và hướng thiện.

Gói hộp đêm đầu tiên


Cũng quan trọng như hộp bỏ bao bì, hộp đêm đầu tiên là cần thiết để di chuyển thành công. Nên thay quần áo, đồ vệ sinh cá nhân, giấy vệ sinh, đồ ngủ, khăn tắm, khăn trải giường và các thứ cần thiết khác như túi trà hoặc máy ép cà phê. Nó làm cho một sự khác biệt lớn đến sự thoải mái của đêm đầu tiên của bạn trong nhà mới của bạn để bạn không phải là điên cuồng tìm kiếm thông qua các hộp vào lúc nửa đêm cố gắng tìm bàn chải đánh răng của bạn.

Chủ Nhật, 21 tháng 5, 2017

Tâm sự về nghề gốm tại làng Phước Tích

Nằm gần sông O Lầu ở xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế, làng Phước Tích nổi tiếng trên cả nước về thủ công sản xuất gốm.
Làng được thành lập cách đây hơn 500 năm vào thế kỷ 15 dưới triều vua Lê Thánh Tông (1460-1497) với cái tên đầu tiên là Đông Quyết và sau đó đổi tên thành Phước Tích trong thời Nguyễn (1802-1945).
Nằm gần sông O Lầu ở xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế, làng Phước Tích nổi tiếng trên cả nước về thủ công sản xuất gốm. Làng được thành lập cách đây hơn 500 năm vào thế kỷ 15 dưới triều vua Lê Thánh Tông (1460-1497) với cái tên đầu tiên là Đông Quyết và sau đó đổi tên thành Phước Tích trong thời Nguyễn (1802-1945).

Chúng tôi lang thang vào thăm và nói chuyện với chủ nhân những ngôi nhà trăm tuổi, thăm và chụp ảnh cây thị ngàn năm trầm tư bên ngôi miếu cổ. Và nao nao cùng những lò gốm xưa giờ đã trở thành phế tích-những lò gốm mà theo như những cư dân Phước Tích cho biết, vốn một thời là sinh kế chính của con dân trong làng. Thế cho nên chẳng lạ, ở Huế, nói cái tên Phước Tích chưa chắc nhiều người biết, nhưng nhắc đến “làng đôộc đôộc” nhiều người lại quen. Thời gian trôi mau, những thùng, những thau, nhưng soong, những lọ… bằng kim loại, bằng nhựa tràn về đã đẩy đồ gốm Phước Tích lùi vào quá vãng. Con dân Phước Tích không còn ai đủ can đảm theo nghề. Những lò gốm nguội ngắt, nằm buồn bên dòng Ô Lâu vẫn lặng lẽ ngày đêm xuôi về biển… Những tưởng tất cả sẽ đi vào lãng quên. Nhưng rồi, cùng với sự “xuất hiện” trở lại của cái tên Phước Tích, nghề gốm cũng được chú ý và đứng trước hy vọng hồi sinh.

Từ Festival Huế 2006, với tour “Hương xưa làng cổ”, lò gốm Phước Tích đỏ lửa trở lại trong niềm vui của các nghệ nhân và con dân trong làng. Tiếp đó, một số thanh niên Phước Tích được hỗ trợ để học nghề; đi tham quan, học tập kinh nghiệm tại những làng gốm nổi tiếng khác; được Trường đại học Nghệ thuật giúp thiết kế mẫu mã; Quỹ Khuyến công giúp lò nung sản phẩm bằng gas…Chưa nhiều, nhưng những sản phẩm gốm từ Phước Tích đã có mặt ở một số nhà sách, quầy lưu niệm và được du khách chọn mua…
Các bình hoa làm bằng gốm tại lò 

Xấp xỉ ngoài bốn mươi nhưng vẫn còn độc thân. Lương Thanh Hiền vừa chăm chú với từng nét vẽ trên sản phẩm gốm vừa trò chuyện cùng tôi. Nhóm của Hiền gồm 4 anh em, mỗi người góp 30 triệu đồng vay từ Ngân hàng Chính sách và dựng xưởng sản xuất gốm ngay tại Phước Tích. “Mấy anh em cùng chung tâm nguyện muốn phục dựng lại nghề truyền thống của cha ông. Còn vất vả, nhưng tôi tin là triển vọng và có thể sống được bằng nghề”- Lương Thanh Hiền quả quyết.

Nghề gốm trên đất Việt Nam thì có nhiều, nhưng Hiền tin là gốm Phước Tích sẽ có vị trí của mình. Lý do? Đó là bởi gốm Phước Tích có nguồn nguyên liệu khác lạ. Đất sau khi được nung lên dù không tráng men vẫn không bị thẩm thấu. Dùng làm vật dụng để nấu ăn rất ngon. Thế nên không phải ngẫu nhiên mà xưa kia, triều đình giao cho làng “đôộc” Phước Tích trách nhiệm phải sản xuất “om ngự” để dùng nấu cơm gạo De cho vua ngự thiện. Màu sắc của đất làm gốm Phước Tích cũng là màu sắc tự nhiên, không cần pha chế, thế mới độc đáo.
Chấm dứt nét vẽ sau cùng, Hiền đứng dậy dẫn tôi đi xem xưởng làm gốm. Phía sau là một bể lọc, lắng. Đất sau khi lấy về, được cho vào bể đánh tơi ra với nước rồi lọc, lắng, đem phơi khô như kiểu người ta vẫn thường làm bột sắn dây, bột hoàng tinh vậy. Sau đó mới được nhào và nặn hình sản phẩm. Tùy theo chủng loại. Như một bình hoa đường kính 20 cm, cao chừng 40 cm thì nặn, trang trí hoa văn mất chừng nửa ngày, phơi 3 ngày. Sau đó đem nung. Nếu nung theo lò truyền thống thì thời gian nung sẽ mất 4 ngày, sau đó phải chờ thêm khoảng 20 ngày nữa, lò nguội mới lấy được sản phẩm. “Bây giờ nung lò gas, tất cả chỉ mất có 24 giờ. Sản phẩm thu được cũng đạt tỷ lệ rất cao, tới 80-90%; trong lúc đó, lò truyền thống cao lắm cũng chỉ cho thu hồi chừng 60%” - Lương Thanh Hiền giảng giải. Sản phẩm gốm từ xưởng của nhóm Lương Thanh Hiền đang được ký gửi tại nhà sách Phương Nam, Khu văn hóa Huyền Trân, chợ Phò Trạch… Nhóm Hiền đang mong được tạo điều kiện vay thêm chừng 50-70 triệu nữa để hoàn chỉnh nhà xưởng. “Mẫu mã có, kỹ thuật đã nắm vững, mình có thể đáp ứng mọi yêu cầu của khách hàng” - Hiền tự tin. Quan điểm của Hiền là phải học tập, đổi mới mẫu mã; sản xuất những mẫu sản phẩm lưu niệm gọn, nhỏ, vừa túi tiền của khách…
- Nhưng như thế có người lại lo rằng gốm Phước Tích sẽ không còn là gốm Phước Tích nữa, mà lai lai như gốm Bát Tràng, gốm Phù Lãng…Vậy thì về Phước Tích làm gì…cho mệt?!!-Tôi nhắc lại băn khoăn của một người làm công tác văn hóa từng trao đổi cách đây chưa lâu.
Hiền nắm tay dẫn tôi đến bên khu trưng bày những om, trách, ghè, bình vôi…đang còn tươi rói màu đất nung:
- Đó, sản phẩm truyền thống đó. Làm ra rồi… để vậy, không ai mua. Vậy thì sống hay chết? Sao không cách tân, lấy cái mới để mà “nuôi”, mà duy trì cái cũ, cái truyền thống? - Hiền day dứt.


Làng nghề độc đáo này đã góp phần làm giàu cho nông thôn và sự sáng tạo cho nền văn hoá cụ thể của ngôi làng cổ xưa Phước Tích. Ngày nay, nếu biết thừa kế và phát triển gốm với thương hiệu Phước Tích và mỹ thuật gốm sứ truyền thống và độc đáo để trang trí và xuất khẩu, và nghề thủ công truyền thống này - niềm tự hào của dân làng đang hồi sinh.

Thứ Tư, 17 tháng 5, 2017

Cách thức nhận biết gốm Bát Tràng thật


Từ hàng trăm năm nay, Bát Tràng, ở bờ phía bắc của Sông Hồng, đã nổi tiếng về các sản phẩm gốm và đồ gốm chất lượng cao. Du khách ngày nay nhìn thấy một làng nghề năng động và năng động đã trở thành biểu tượng của sức sống cho thị trường hàng thủ công truyền thống khắc sâu vào lịch sử lâu dài của Việt Nam. Với tiềm năng về sản xuất gốm lâu đời, không khó để nhận ra rằng lượng du khách muốn trải nghiệm văn hóa Việt Nam qua các sản phẩm gốm sứ ngày càng nhiều. Tuy vậy, việc sản phẩm gốm kém chất lượng dựa trên tên tuổi các thương hiệu gốm sứ nổi tiếng ngày càng gia tăng. Tiêu biểu như các sản phẩm do nhập hàng gốm sứ Trung Quốc với giá thành rất rẻ, nhiều thương nhân vì lợi nhuận trước mắt mà không ngại trộn lẫn các món đồ gốm của Trung Quốc và Bát Tràng bán cùng nhau nhằm đánh lừa mắt người mua.
Qua bài viết này, tôi xin hướng dẫn mọi người cách để nhận biết gốm sứ Bát Tràng thật và đồ gốm giả Trung Quốc

1. Phân biệt gốm sứ Trung Quốc và Bát Tràng thông qua họa tiết
- Gốm sứ Trung Quốc hay các nơi khác nhập về và gia công lại thường thì các họa tiết, hoa văn được dán đề can, sau đó hấp qua lửa để mực ăn sâu vào men mà hoàn toàn không phải vẽ. Do đó các nét vẽ thường rất đều, giống nhau từ nhỏ đến lớn.
- Đối với gốm sứ Bát Tràng hầu hết được làm thủ công nên các hoa văn, họa tiết đều được vẽ. Nét vẽ có nét thanh, nét đậm không đều và không giống nhau mặc dù rất đẹp.

Như vậy, khi các bạn lựa chọn mua các sản phẩm bán theo bộ như ấm chén, bát, đĩa…  hoàn toàn có thể kiểm tra về họa tiết để tránh mua phải đồ gốm sứ của Trung Quốc.
 
Các sản phẩm gốm Bát Tràng có độ tinh xảo cao về hoa văn
2. Phân biệt thông qua màu sắc họa tiết

- Màu sắc các họa tiết của Trung Quốc thường sẽ sặc sỡ như đỏ, xanh thẫm, vàng… nên khi xem các đồ này bạn thường bị ấn tượng, thu hút.

- Gốm sứ Bát Tràng màu sắc thường trang nhã, ít màu ( một đến 2 màu) và các nghệ nhân làm gốm thường sử dụng các màu gần gủi với đời sống hàng ngày như xanh lá, xanh non, đại thanh…
Bên cạnh đó, màu mực trên họa tiết của đồ gốm sứ Trung Quốc do dán nên rất dễ bị mờ, trong khi đồ của Bát Tràng được tráng thêm lớp men bảo vệ bên ngoài nên không bị mờ khi sử dụng.

3. Phân biệt theo độ trong của xương đất

Xét về độ trong của xương đất trong các sản phẩm gốm sứ  Trung Quốc và Bát Tràng thì Trung Quốc hơn hẵn. Các bạn có thể kiểm tra bằng các đưa sản phẩm ra ngoài ánh sáng, Nếu hình ảnh bàn tay của bạn ở phía bên kia của sản phẩm mờ thì đó là gốm sứ Bát Tràng. Ngược lại, nếu hình ảnh bàn tay rõ nét thì bạn nên cân nhắc vì có thể đây chính là đồ của Trung Quốc.
Mặc dù vậy, hiện nay một số đồ gốm sứ cao cấp của Bát Tràng cũng có nước men khá trong, điều này là một trong những lý do khiến cho sản phẩm gốm sứ khó phân biệt.
Tuy nhiên, khi sử dụng, các bạn có thể thử đồ thật giả qua độ bền của xương đất. Với đồ của Bát Tràng thường rất bền, cứng, chịu nhiệt tốt, do đó bạn có thể đưa vào lò vi sóng được. Nhưng với đồ gốm sứ của Trung Quốc, khi bạn sử dụng rất dễ bị nứt, sứt miệng…

4. Căn cứ vào độ dày của sản phẩm

Do được làm thủ công nên đồ gốm sứ của Bát Tràng thường dầy hơn, khi cầm trên tay có cảm giác nặng tay và chắc chắn hơn đồ gốm sứ của Trung Quốc.

5. Chất lượng sản phẩm gốm sứ

Ngoài ra, màu vẽ của Bát Tràng thường được bao bọc thêm bởi một lớp men bên ngoài nên hoa văn không bị mờ, an toàn cho sức khỏe của người tiêu dùng. Ngược lại, đồ của Trung Quốc dễ bị mờ và bong tróc khi bạn sử dụng lâu ngày thường bị mờ. Bên cạnh đó, trong mực có chứa chì nên ảnh hưởng tới sức khỏe.

Với những thông tin cung cấp, chúng tôi mong muốn các du khách nói riêng và những người yêu gốm nói chung có thể tự tin phân biệt được hàng giả và thật để có được trải nghiệm tốt nhất của mình với các món đô gốm. Hi vọng gốm Bát Tràng sẽ ngày càng phát triển và vươn tầm châu lục.

Những làng gốm tiêu biểu của Việt Nam

Việt Nam có nhiều làng nghề truyền thống thu hút du khách nước ngoài như làng lụa, làng nghề, làng hương, và đặc biệt là làng gốm. Gốm sứ của người Việt Nam rất tinh tế và có lịch sử lâu dài. Nếu bạn yêu thích đồ gốm hoặc muốn ghé thăm các làng gốm Việt Nam vẫn còn giá trị truyền thống từ quá khứ, đừng bỏ lỡ các làng sau:

Làng gốm Bát Tràng

Gốm Bát Tràng nổi tiếng là một trong những gốm sứ nổi tiếng nhất của Việt Nam. Làng nằm ở quận Gia Lâm của Hà Nội, chỉ cách khu phố cổ Hà Nội khoảng 10 km. Làng gốm này có lịch sử lâu dài hơn bảy thế kỷ và là một trong những làng gốm nổi tiếng nhất của Việt Nam mà bạn không nên bỏ lỡ. Các sản phẩm chính của gốm Bát Tràng là thờ cúng, trang trí, và chủ yếu sử dụng trong nhà hàng ngày như: cung, chén, bình, lọ ... Tại Bát Tràng, bạn có thể đi dọc theo con đường chính trong làng vì có rất nhiều cửa hàng gốm Ở cả hai bên trước khi bắt đầu chợ gốm ở trung tâm mua nhiều gốm sứ. Bạn cũng có thể tự tạo ra một sản phẩm gốm của mình như một món quà cho bạn bè hoặc gia đình tại một ngôi nhà địa phương. Mặc dù ngôi làng khá thương mại vì hầu hết các gia đình đã áp dụng công nghệ này vào sản xuất gốm ngày nay, họ vẫn duy trì một đồ gốm làm bằng tay cho khách đến thăm và trải nghiệm.
Làng gốm Phù Lãng

Một góc làng gốm Bát Tràng
Không giống như Bát Tràng, Phú Lăng là một làng nghề không có thương mại thuộc tỉnh Bắc Ninh. Làng này cũng có một lịch sử lâu dài của tám thế kỷ nhưng sản phẩm chính là chậu đất sét, gạch trang trí, lọ và quan tài chôn cất. Gốm Phù Lãng là một loài duy nhất và thường được phân biệt bằng màu nâu - một màu đặc biệt của đất sét thô tìm thấy trong khu vực. Khách du lịch chỉ có thể đến thăm một số gia đình làm đồ gốm mà không cố gắng làm nó bằng của riêng mình. Holidaytoindochina thường cho khách hàng của họ một chuyến đi nhỏ để thăm làng gốm Phù Lãng sau khi họ hoàn thành chuyến đi du lịch Hạ Long và trở lại Hà Nội.

Làng gốm Thổ Hà

Xã Thổ Hà nằm ở tỉnh Bắc Giang, cách Hà Nội khoảng 50 km. Cùng với Phú Lãng và Bát Tràng, Thổ Hà là một trong ba làng gốm cổ nhất của Việt Nam. Làng này từng là trung tâm kinh tế với rất nhiều gốm, lò nung và nghệ nhân gốm. Các sản phẩm gốm của làng không thể bắt chước được bởi vì chúng là loại nâu, không thấm nước, và màu nâu mịn. Làng này cũng là làng gốm không thương mại với rất ít du khách.

Làng gốm Thanh Hà

Làng gốm Thanh Hà nằm trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, cách Phố cổ Hội An khoảng 3km. Các sản phẩm gốm chính ở Thanh Hà là chén, bình, chậu và chậu, đặc biệt là chậu hoa. Các thợ thủ công sử dụng đất sét và kỹ thuật để tạo ra nhiều màu sắc khác nhau như hồng, vàng, đỏ, nâu nhạt hoặc đen. Thanh Hà cũng nổi tiếng về gạch ngói với nhiều hình dạng và kích cỡ khác nhau. Bạn phải mua vé vào cửa trước khi đến thăm ngôi làng với giá 15.000 đồng / người. Tuy nhiên, Holidaytoindochina thường sắp xếp chuyến đi đến làng trong tour Hội An Bikking.

Làng gốm Đông Triều

Trồng gốm Đông Triều nằm ở tỉnh Quảng Ninh cũng là một trong những nơi tốt nhất để tham quan du lịch trong và ngoài nước khi ghé thăm Vịnh Hạ Long. Gốm Đông Triều nổi tiếng về khả năng chịu lửa. Họ cũng có nhiều tính năng độc đáo so với những người khác như chậu hoa lớn với đường kính 100 cm. Gốm Đông Triều được đánh giá cao bởi khách hàng nước ngoài và được xuất khẩu sang nhiều nước như: Hàn Quốc, Đài Loan, Các tiểu vương quốc Arập thống nhất, Canada ...


Trên thực tế, Việt Nam có 14 làng gốm bao gồm: Bát Tràng, Phù Lãng, Thổ Hà, Đông Triều, Thanh Hà, Chư Dầu, Phước Tích, Bàu Chúc, Biên Hòa, Tân Phước Khánh, Chánh Nghĩa, Lái Thiêu, Vĩnh Long và Cây Mai. Và đây là 5 ngôi làng gốm chính nên ghé thăm ở Việt Nam.

Thứ Ba, 16 tháng 5, 2017

Di tích gốm sứ tại lò Hưng Lợi ( Phần 2)

III. Các hiện vật của di tích:
Có thể kể ra một số loại sản phẩm đặc trưng của khu lò Hưng Lợi:
Đầu tiên là loại lu (chum) lớn nhất, chất liệu sành nâu, dáng thuôn vào đáy hay bầu tròn, còn được gọi là lu 3 đôi hay lu 5 đôi nước (mỗi đôi nước 40 lít). Lu được tạo hình bằng phương pháp dải cuộn, sau đó dùng bàn dập sửa sang lại cho gắn kết và vỗ cho mỏng đều. Xung quanh các vách lò có rất nhiều lu hư hỏng chứa đầy mảnh sản phẩm hoặc đất, chất thành hàng dài hay chồng lên nhau để gia cố vách lò.

Chiếm tỷ lệ lớn nhất là các loại sản phẩm gốm và sành không men hoặc có men nâu hay men vàng (men da lươn, da bò). Về loại hình, chủ yếu là "đồ bỏ bạch" như siêu, ơ (nồi có tay cầm) với nhiều kích cỡ, các loại hộp men nâu. Trên nắp ơ, đáy siêu, đáy hay nắp hộp có in nổi ba chữ Hán trong khung hình bầu dục "Hưng Lợi Diêu" (lò Hưng Lợi). Ngoài ra còn có các kiểu khạp, hũ, chậu, vịm, chậu bông ... Đặc biệt trong lò này xuất hiện loại chậu bông (tròn hay lục giác) kích thước nhỏ, in hoa văn nổi men nâu, vàng (bông mai, cúc). Thân phủ men xanh đồng hay xanh lam, màu men đặc trưng của gốm cổ Sài Gòn.
 
Khu lò gốm Hưng Lợi
Loại sản phẩm thứ ba là lại gốm men xanh trắng và men nhiều màu, gồm có tô, đĩa, bát, cốc. ly đèn, lư hương, ấm trà, bình rượu, thìa muôi ... Hoa văn xanh hoặc hoa văn nhiều màu (tím, đỏ, xanh lá cây, nâu, vàng), một số sản phẩm có những chữ Hán màu đen. Loại sản phẩm này không nhiều, nhưng vẫn có sản phẩm đặc trưng là tô con gà, thìa cá vàng in chìm hai chữ Hán "Kim Ngọc", cốc cao có 3 ngấn. Giai đoạn này phổ biến loại chậu kiểng lớn tạo dáng bằng khuôn in hai mang. Hoa văn in nổi là những đường hồi văn và các khung trang trí các mô típ phổ biến như Tùng Lộc, Mai Điểu, Bát Tiên ... Màu men phổ biến của chậu kiểng vẫn là xanh đồng, xanh lam, xanh lá cây ... Do sản phẩm chính là tô, bát, nên lò này còn được gọi là Lò Men (các hiện vật và hình ảnh khai quật được trưng bày tại Bảo tàng lịch sử TPHCM).


Hiện nay, việc nghiên cứu thực địa của các nhà khảo cổ trong và ngoài nước ngày càng rầm rộ và nhận được sự quan tâm của dư luận. Tuy nhiên, việc nơi đây còn là địa bàn của khu dân cư khiến cho tình hình di dời khá phức tạp. Điều này rất cần sự quan tâm của các cơ quan chức năng có thẩm quyền để khu di tích được bảo đảm an toàn và tiện lợi cho việc khảo cổ.

Thứ Sáu, 12 tháng 5, 2017

Di tích gốm sứ tại lò Hưng Lợi ( Phần 1)

I – Vài nét về lò gốm Hưng Lợi
Lò gốm Hưng Lợi (khu phố 5, phường 16, quận 8) được công nhận là di tích lịch sử quốc gia. Do sự thiếu quan tâm bảo tồn, bảo tồn di tích này đã bị xuống cấp nghiêm trọng. Thậm chí Trần Văn Tuấn, một nhân viên văn hoá và xã hội tại phường 16, quận 8, cũng mất phương hướng khi dẫn chúng tôi tới khu di tích này.
Năm 1999, sau khi lò gốm Hưng Lợi được công nhận là di tích lịch sử quốc gia, chính quyền địa phương đã xây dựng một bức tường lưới và một cửa khẩu với dấu ấn của Khu di tích Gốm Hưng Lợi.
Tuy nhiên, ngay sau đó, dấu hiệu đã bị bỏ do tranh chấp đất đai tại khu vực. Khi chúng tôi đến, chỉ có một tàn tích. Hàng ràobị gỉ sét, cổng của các di tích, cỏ, rêu bám lên chằng chịt. Thậm chí phần quan trọng nhất của di tích là lò gốm cũng sụp đổ, chìm, biến dạng.
Ngày nay ở khu vực này còn lưu lại một số địa danh có liên quan đến nghề làm gốm như Kênh- Rạch - Bến Lò Gốm, đường Lò Siêu, đường Xóm Đất ... thuộc vùng Chợ Lớn ngày nay. Phế tích Lò Gốm là một gò cao khoảng 6m theo hướng Bắc Nam, một đầu (phía Bắc) cách kênh Ruột Ngựa khoảng 50m, đầu phía Nam có một con rạch nhỏ chảy ra kênh Lò Gốm - con rạch này cách đây khoảng 10 năm đã bị cạn, nay chỉ còn dấu vết từng đoạn rạch ngắn. Hai đầu của gò đất đã bị đào phá chỉ còn lại đoạn giữa dài khoảng 40m, chân gò rộng 30m. Cấu tạo gò chính là phần còn lại của những lò gốm với đống phế phẩm và phế liệu dày đặc hai bên sườn gò. Đợt khảo sát vào tháng 4/1997 đã cho biết đây là di tích khá lớn và khá nguyên vẹn, diện phân bố của nó lên đến 10.000m2. Chưa kể những ao nhỏ - dấu tích của việc khai thác nguyên liệu làm gốm - phân bố rải rác khắp làng Hòa Lục và cả làng Phú Định bên kia kênh Ruột Ngựa.
Lò Hưng Lợi ngày còn hoạt động

Đợt khai quật cuối năm 1997 và đầu năm 1998 cho biết khu lò gốm Hưng Lợi có cấu trúc khá phức tạp, do có 3 giai đoạn sản xuất gồm 3 lò gốm nối tiếp và chồng lên nhau. Trên đại thể, có thể nhận thấy: cả ba lò tuy sớm muộn khác nhau nhưng đều cùng một kiểu lò gốm nối tiếp và chồng lên nhau nhưng đều cùng một kiểu lò ống (lò tàu) thông suốt từ bầu lửa đến ống khói. Độ dốc của nền cao dần từ Bắc lên Nam, bề ngang của nền ở phía Nam hẹp hơn phía Bắc đôi chút (khoảng 5-7cm), dấu tích này đã cho biết vị trí bầu lửa của cả ba lò ở phía Bắc (là phía kênh Ruột Ngựa) và cửa thoát khói (ống khói) ở phía Nam. Cửa lò đều tìm thấy ở phía Đông, là phía phân bố chính của khu lò. Như vậy cửa ra - vào sản phẩm ở cùng một phía, và có thể ở cả cửa hậu.

Ngoài cấu trúc chính là lò nung, các lò ống còn có các đoạn tường bao gia cố vách lò, đặc biệt gia cố đoạn vách gần vách hậu, nơi chịu nhiệt độ cao nhất. Tường bao thường bằng gạch xây vách lò, hoặc gạch bịt cửa hậu bị hư hỏng. Các viên gạch xếp chồng lên nhau, hơi nghiên ôm lấy chân vách lò. Có thể kè thêm một số lu hay khạp bị hỏng, hoặc xếp lu, khạp lên trên tường gạch, hoặc xây gạch lên trên hàng lu, khạp .... Tường bao có thể có nhiều lớp, tuỳ độ lan rộng của phế phẩm lò mà người ta xây tường bao chặn lại để tạo độ vững chắc cho lò.

II. Tìm hiểu di tích
Di tích là một gò đất cao khoảng 5 mét, chân gò theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Trên gò có nhiều cây hoang dại như hai cây keo già, me… chung quang gò là vùng đất trũng có nhiều ao nhỏ. Quan sát đất đắp bờ bao nhận thấy là loại đất sét xám xịt mịn.
Hiện nay phía đầu Nam bị sụp, về phía Bắc của di tích đã bị dân san phẳng làm khu nghĩa địa nhỏ. Sau khi sửa sang lại vách và nền lò ở đầu phái Bắc, di tích được mô tả như sau:
Phát quật mặt bằng phái bắc gò làm xuất lộ một phần nền lò, một phần vách lò hai phía Tây, Đông và lớp hợp chất nghi là nóc lò (?). Đào năm hố thám sát hai bên sườn gò; thu lượm và phân loại được một số sản phẩm, gồm 3 chất liệu chính: sành (lu, khạp…), gốm xốp men nâu (hộp, siêu, tay cầm, chậu, vịm…), gốm bán sứ (chén, dĩa, cốc, ly, muỗng…) một số khuôn và hiện vật kỹ thuật…. Nhận định bước đầu: cấu trúc lò là ống dài thông suốt từ bầu lửa đến ống khói. Nền dốc năm độ từ Bắc (phía kênh Ruột Ngựa) lên phía. Dấu tích bầu lửa đã mất do việc xây mồ mả. Ống khói phía Nam. Cửa lò có thể ở cả hai bên.

 Còn tiếp

Thứ Tư, 10 tháng 5, 2017

Gốm sứ thời Lý phát triển mạnh

Trong triều đại nhà Lý (1010-1225) nền độc lập của Việt Nam được bảo vệ và tăng cường, văn hoá Việt Nam hồi sinh và phát triển. Giai đoạn này cũng chứng kiến chiều cao của Phật giáo ở Việt Nam. Một số lâu đài hoàng gia và các tháp Phật giáo lớn được xây dựng.

Đồ gốm Việt Nam phát triển mạnh mẽ, thể hiện sức sống và bản lĩnh trong khi tiếp nhận và kết hợp các yếu tố khác nhau từ văn hoá Trung Hoa, Chăm, Khmer và Ấn Độ. Các khảo cổ học đã cho thấy các trung tâm sản xuất gốm sứ thời kỳ này tại Hà Nội cũng như tại các tỉnh ngày nay là Hải Dương, Nam Định, Thanh Hóa và Ninh Bình. Đồ gốm được sử dụng phổ biến, từ tiền bản quyền cho dân gian. Một số loại tráng men xuất hiện với nhiều hình dạng khác nhau và các họa tiết trang trí. Nhiều sản phẩm đạt được chất lượng cao về kỹ thuật và thẩm mỹ.
Gốm thời Lý, với các bằng chứng từ Thế kỷ XX, nhiều người tin chắc là có và đẹp. Thế nhưng khi đi vào cụ thể thì rất khó vì chứng cứ còn quá ít. Nhiều đồ sứ thời Lý bị xếp lẫn với gốm sứ thời Trần. Vậy nên, khi viết chương gốm sứ thời Lý và gốm sứ thời Trần trong tập sách Lịch sử gốm sứ Việt Nam của Viện Khảo cổ học, tác giả bài viết này vẫn phải viết chung là gốm sứ Lý - Trần.
Hoa sen là biểu tượng thời Lý 

 Nhưng bây giờ thì khác. Cuộc khai quật tại địa điểm 18 Hoàng Diệu đã đem lại cả một hệ gốm men thời Lý với những đồ gốm thời Lý rất đẹp và hoàn hảo và các chứng cứ sản xuất tại chỗ (con kê, mảnh khuôn in, mảnh bao nung). Thời Lý đã sản xuất gốm men trắng, gốm men trắng ánh xanh, gốm men ngọc, men xanh lục, men vàng và hoa nâu. Gốm men trắng Lý có độ trắng mịn và óng mượt và phần nhiều về chất lượng đã đạt tới trình độ sứ. Sự khác nhau giữa gốm trắng Lý và gốm trắng Tống (Trung Quốc) chủ yếu được nhìn nhận qua sắc độ đậm nhạt của màu men hay xương gốm và kỹ thuật chế tác. Đây cũng là đặc điểm khó phân biệt giữa gốm trắng Lý với gốm trắng Tống.
 Nhưng nếu phân tích hệ thống từ những đồ gốm trắng Lý đích thực, thuần Việt qua đồ án trang trí hình rồng và hoa lá mà phong cách của nó giống hệt như những hình chạm khắc trên đá trong kiến trúc chùa, tháp thời Lý (Tháp Chương Sơn, chùa Phật Tích), chắc chắn người khó tính nhất cũng có thể thấy được đầy đủ và rõ ràng hơn về gốm men trắng Lý tại số 18 Hoàng Diệu đã tìm thấy mảnh bệ tháp sứ trắng trang trí hình rồng và mảnh bệ tháp sứ trang trí hình tiên nữ (Apsara) là minh chứng sinh động, cho thấy trình độ phát triển rất cao của công nghệ sản xuất đồ sứ trắng thời Lý.
 Bằng chứng thuyết phục khác là trong số đồ sứ trắng Lý tìm được trong Hoàng thành, có những loại như: bát, đĩa, nắp hộp, đài sen…bị méo hoặc cháy do quá lửa cho thấy nó được sản xuất tại chỗ. Suy đoán này được khẳng định rõ khi tại các hố ở khu D đã phát hiện được hàng nghìn mảnh bao nung gốm cùng nhiều loại con kê, dụng cụ thử men, đặc biệt là những đồ gốm lớn bị sống men, như chiếc đĩa lớn có đường kính miệng 39,5cm ở hố D5, cho thấy khả năng có những lò sản xuất gốm thời Lý ở đó, quanh khu vực Hoàng thành Thăng Long.
Thời Lý còn sản xuất loại gốm rất đẹp là gốm “ảnh thanh” (Gốm trắng xanh) (hay gốm trắng có ánh xanh). Trước đây chưa bao giờ có ai nghĩ là ở Việt Nam có sản xuất loại gốm này bởi độ tao nhã và tinh tế của sắc men trắng ánh xanh phủ lên trên những đồ án hoa văn hết sức mềm mại. Loại gốm này vốn là một dòng gốm rất cao cấp của Trung Quốc thời Tống - Nguyên. Nó cũng được xuất khẩu sang Nhật Bản, Việt Nam. Giờ đây chúng ta đã tìm thấy những mảnh bát đĩa ảnh thanh Việt Nam có loại hình và hoa văn như gốm trắng. Đó là đóng góp tuyệt vời của gốm Lý. Gốm men ngọc Lý trước đây cũng là một câu hỏi nữa cho giới nghiên cứu trong và ngoài nước. Bây giờ, chúng ta cũng tìm thấy rất nhiều gồm bát, đĩa trang trí hoa văn in hoa cúc dây như kiểu gốm Tống và nhóm bát, đĩa khắc chìm hoa sen mang phong cách Việt đặc trưng.
Men ngọc Lý phổ biến có màu xanh ngọc sắc đậm, xương gốm trắng đục, đanh mịn và có nhiều điểm khác biệt so với gốm thời Trần về kỹ thuật tạo chân đế. Bằng chứng sản xuất tại chỗ của loại gốm này cũng được khẳng định rõ qua những đồ gốm phế thải, đặc biệt là qua những mảnh khuôn in hoa cúc dây phát hiện được ở hố D6. Hoa văn trên khuôn in này có phong cách như hoa văn trên đĩa men ngọc tìm thấy trong lòng giếng thời Lý ở hố A10 và cả hai đều phản ánh sự ảnh hưởng khá đậm phong cách trang trí hoa cúc dây của gốm Tống có niên đại từ 1090 đến 1096. Do được tạo nổi và đan xen là các lỗ tròn trổ thủng, nên men dồn đọng không đều và tạo nên những mảng màu xanh đậm nhạt khác nhau trông rất sinh động. Sự tinh mỹ và cách thể hiện hình rồng trên nắp hộp này tương tự như hình rồng chạm trên đố đá tròn trang trí trên Tháp Chương Sơn (Nam Định) có niên đại Lý (1107). Ngoài ra, gốm men xanh lục còn được trang trí khá nhiều trên đầu ngói ống và các lá đề trang trí hình rồng, một số đĩa bát có in hình hoa cúc.
 Gốm men vàng Lý có sắc vàng tươi rực rỡ. Cùng với men lục, gốm men vàng Lý cũng đạt tới đỉnh cao mà ta không còn gặp lại sắc độ men như vậy ở các thời sau đó trên đồ gốm. Men vàng thời sau chủ yếu là thấy trên một số loại ngói được dùng trong kiến trúc Hoàng cung thường gọi là Hoàng lưu ly.
 Gốm hoa nâu Lý là sản phẩm độc đáo và đặc sắc nhất của gốm Việt Nam. Gốm hoa nâu   Lý trong Hoàng thành Thăng Long có chất lượng cao, đặc biệt là các loại vò, chậu, thạp trang trí hoa sen, dây lá, ở đây có các loại thạp lớn trang trí rồng .

 Bên cạnh đó còn có nhiều loại gốm nhỏ như nắp hộp, lọ nhỏ hay bát, đĩa trang trí rồng, hoa sen dây theo lối nền tô men nâu, hoa văn men trắng với đường nét chạm - khắc uốn lượn mềm mại, tinh xảo. Có thể thấy rằng Thăng Long thời Lý là nơi sản xuất đồ gốm hoa nâu đầu tiên và được dùng trước hết trong Hoàng cung.

Thứ Bảy, 6 tháng 5, 2017

Làng gốm Hương Canh nổi tiếng lâu đời ( Phần 2)

Chia sẻ bằng chính những kinh nghiệm lâu năm của mình nên ông Hải, một nghệ nhân ở làng gốm hầu như luôn phải để “mắt” canh lò thủ công. Ông Hải cho biết thêm: “Nhiệt độ của chúng tôi đốt từ bé đến to, 28 tiếng mới đốt được 500 độ C, 6 tiếng sau đốt được thêm 350 độ là 850 độ. Thế nhưng 2 tiếng cuối cùng bắt buộc phải lên 400 – 450 độ nữa là thời gian gấp rút ép lò chín. Cho nên bắt buộc lửa lúc nào cũng phải giữ nguyên một màu vàng”.
Làm gốm là một nghề khó, bởi các nghề thủ công khác người ta có thể kiểm tra, thử được sản phẩm của mình. Tuy nhiên với gốm, sành Hương Canh thì  “không biết đâu mà lần”, phải đợi đến khi đốt lò xong mới kiểm tra được. Trong quá trình thử phải nhìn bằng mắt, từ đó người thợ mới phán quyết được tình hình nung gốm ra sao. Các nghệ nhân lâu năm thường sử dụng cát để kiểm tra nhiệt độ của lò mà tăng hay giảm nhiệt. Kỹ thuật đốt lò buộc phải là người dày dặn kinh nghiệm.

Tại sự kiện Six space Đất Xanh Gốm Sành tổ chức vào ngày 25/9/2016 ở 94B Trần Hưng Đạo các nghệ nhân của làng gốm Hương Canh đã được giới thiệu đến công chúng thủ đô các sản phẩm đặc trưng của mình.
 
Sản phẩm gốm của làng Hương Canh
Đây là sự kiên Gốm và sành Hương Canh, toàn là các sản phẩm gốm đặc sắc của các nghệ nhân mang từ làng gốm Hương Canh, Vĩnh Phúc. Bạn Trần Hồng Quân, sinh viên tại Hà Nội, đứng trước những sản phẩm gốm sành của quê hương mình cho biết: “Tôi là người ở Hương Canh, hôm nay tôi rất may vì được tiếp xúc trực tiếp với các nghệ nhân làm gốm của chính quê hương mình, đây là một niềm tự hào lớn cho quê hương. Bản thân tôi khá thích thú về màu sắc của gốm Hương Canh, vì nó có màu ánh xanh, hơi tím một chút, chất thô ráp chân thật và mộc mạc, đó cũng chính là hồn gốm của quê tôi”.

Những người làm nghề gốm sành là những người thổi hồn vào đất, gửi hồn mình vào từng sản phẩm. Đã từng có giai đoạn gia đình ông Hải làm ăn thua lỗ, đốt 11 lò liên tiếp nhưng chỉ được một lò khiến đời sống gia đình gặp khó khăn. Mặc dù khó khăn nhưng hai vợ chồng vẫn gắng sức giữ nghề truyền thống của ông cha để lại.
Cho đến thời điểm này, tại làng gốm Hương Canh chỉ còn có 4 gia đình duy trì nghề gốm, họ sản xuất ra bao nhiêu thì tiêu thụ bấy nhiêu. Tuy nhiên để lưu giữ một làng nghề truyền thống không phải là câu chuyện đơn giản. Khó khăn chính là những thế hệ để truyền nghề, thêm vào đó là sự cạnh tranh của đồ nhựa, mặt hàng kim loại…, đang lấn át thị trường trong khi mẫu mã của đồ gốm, sành không có nhiều thay đổi. Bên cạnh đó, trong làng gốm Hương Canh rất nhiều gia đình muốn quay lại làm nghề nhưng không có vốn, không có địa điểm nên chẳng biết làm gì thêm.


Thủ công mỹ nghệ bằng gốm ở làng Hương Canh là một di sản văn hoá lịch sử của Việt Nam. Trong khi giữ được giá trị truyền thống, nghệ nhân Hương Canh đã không ngừng đổi mới hình dạng sản phẩm, cải tiến kỹ thuật và mở rộng phạm vi sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu và sở thích của người mua. Ngày nay, nghề gốm không chỉ cung cấp cho những người thợ có thu nhập ổn định mà còn biến ngôi làng Hương Cánh thành một điểm du lịch nổi tiếng nơi du khách có thể quan sát và tham gia sản xuất gốm.

Thứ Năm, 4 tháng 5, 2017

Làng gốm Hương Canh nổi tiếng lâu đời ( Phần 1)

Là một ngôi làng nổi tiếng trong nhiều làng nghề thủ công truyền thống của tỉnh Vĩnh Phúc, làng Hương Cảnh thuộc xã Tam Cảnh, huyện Bình Xuyên, nằm cạnh Quốc lộ 2, cách Hà Nội khoảng 1 giờ lái xe về phía Bắc rất nổi tiếng về nghệ thuật chế tác gốm với lịch sử một ngàn năm. Dân làng làm bình để giữ gạo, ngô và các loại cây ngũ cốc khác, sau đó sản xuất bình đựng nước, cũng như chậu đựng trà, dụng cụ nấu ăn và quan tài để mai táng. Những sản phẩm này có màu sắc độc đáo của màu xám xanh, nâu và vàng.
Ưu điểm của loại đất sét xanh nguyên chất thường có độ mịn và độ dẻo, độ béo rất cao, nên sản phẩm giống như đã được tráng men… Sản phẩm gốm được tạo ra từ loại đất này nên có chất lượng vượt trội, ngăn được sự thẩm thấu, ngăn ánh sáng…
Để tìm hiểu về loại đất đặc biệt này, chúng tôi có dịp gặp gỡ và trò chuyện cùng ông Trần Văn Hải, một nghệ nhân đã có gần 50 năm gắn bó với nghề làm gốm ở Hương Canh. Nói về loại đất này, ông Hải cho biết: “Đất sét xanh có tỉ lệ độ co cao, từ 26-28%, với những loại đất sét khác thì độ co chỉ khoảng 11% nên không đạt yêu cầu. Do độ co, độ keo lớn, đất chứa nhiều “thịt” nên chất lượng gốm rất tốt”.
Làm gốm tại làng

Theo ông Hải, điểm tạo nên sự đặc biệt của gốm Hương Canh không chỉ ở chất lượng gốm mà còn ở màu sắc, âm thanh. Do cấu tạo của chất đất xanh, nên gốm sành Hương Canh khi nung già gõ thường phát ra tiếng kêu lanh canh, giống như khi ta chạm vào kim loại.

Bên cạnh đó nó còn giữ được nét hoang sơ của nguyên liệu đất sét, vừa gân guốc, vừa khỏe khoắn, tạo nên nét rất riêng biệt hấp dẫn so với các làng quê làm gốm khác. Đặc biệt, các sản phẩm gốm, sành Hương Canh thời xưa thường không sử dụng men tráng, không dùng chất tạo màu mà sản phẩm vẫn bắt mắt. Điểm nhấn vẫn là mầu đỏ và nâu, còn sành thì có màu xanh đen.

Không chỉ vậy, làng gốm Hương Canh còn mang những đặc trưng, đó chính là tinh hoa văn hóa làng nghề truyền thống của dân tộc. Nhà điêu khắc Thái Nhật Minh đã từng đi rất nhiều nơi thuộc khu vực miền Bắc để nghiên cứu, nhưng cuối cùng cũng chỉ lựa chọn làng gốm Hương Canh, bởi đó chính là nguồn cảm hứng sáng tạo.
Anh Thái Nhật Minh chia sẻ: “Tôi là người làm việc khá nhiều với các chất liệu gốm khác nhau ở khu vực miền Bắc này, nhưng cuối cùng tôi cũng chỉ quay về với mảnh đất Hương Canh. Làng gốm Hương Canh thật sự đã để lại ấn tượng để tôi lựa chọn, bởi tôi tin vào làng nghề, tin vào những kinh nghiệm của những nghệ nhân”.
Theo nhà điêu khắc Thái Nhật Minh, chất sành ở Hương Canh có màu xanh đen thu hút, nhất là khi nung thì màu sắc mới được lộ ra, tạo nên sự bất ngờ, thú vị đối với người sáng tác. Đối với các sản phẩm gốm ở Hương Canh, lớp vỏ thường sần sùi có phần “thô” nhưng đó lại là điểm nhấn. Tại mảnh đất này, các nghệ nhân đã tạo ra rất nhiều tác phẩm, thiết kế tối giản, loại bỏ những chi tiết thừa nhưng vẫn giữ được cái hồn của gốm, sành mang thương hiệu Hương Canh.
Từ chất liệu đất xanh mà đã tạo nên những sản phẩm hấp dẫn, mang đặc trưng riêng của mảnh đất Hương Canh. Tuy nhiên chính những ưu điểm này lại mang đến khó khăn đối với người làm gốm, sành. Gốm, sành đất Hương Canh được cho là “không ăn lửa” như các loại đất khác vì nó chứa nhiều chất béo, tạo nên độ trơ. Thế nên các nghệ nhân phải thực sự cẩn thận trong quá trình nung nấu, đảm bảo cả lò chín đều, mà không ảnh hưởng đến chất lượng và màu sắc của sản phẩm.
Nung là công đoạn cuối để tạo nên những sản phẩm gốm sành sau này, bởi lò đốt chỉ có một cửa nên người thợ phải luôn chú ý, quan sát nhiệt độ, thời gian để có thể cho ra những mẻ gốm tốt nhất. Khâu nung đòi hỏi người thợ phải nắm vững kỹ thuật xếp lò, "điều" lửa. Có rất nhiều thợ cao tay nhưng nếu không khéo thì cũng làm hỏng cả mẻ gốm.

Còn tiếp

Thứ Tư, 3 tháng 5, 2017

Tìm hiểu về làng gốm tại Bình Dương

Làng gốm Bình Dương
Một trong những đặc trưng văn hoá quan trọng của Bình Dương là mạng lưới các làng nghề truyền thống trải khắp tỉnh, chuyên sản xuất gốm sứ, sơn mài, điêu khắc, đúc bằng đồng ... Nhưng đó là sản xuất gốm truyền thống là niềm tự hào thực sự của Bình Dương. Thế hệ sau thế hệ, tay khéo léo và trí tuệ nghệ thuật đã tạo ra một sự đa dạng rất lớn về đồ gốm và đồ gốm đã thiết lập tên của họ trên toàn thế giới. Sản phẩm sứ Bình Dương nổi tiếng khắp thế giới cùng với làng gốm Bát Tràng, Tràng An, Biên Hòa, ... Bên cạnh hàng trăm xưởng gốm thủ công mỹ nghệ truyền thống, Bình Dương có nhà sản xuất các sản phẩm sứ cao cấp Bằng cách sử dụng công nghệ hiện đại, máy móc và dây chuyền sản xuất.
Trên đất Bình Dương hiện nay có ba làng nghề sản xuất gốm sứ khá tập trung là: Tân Phước Khánh (Tân Uyên), Lái Thiêu (Thuận An) và Chánh Nghĩa (Thị xã Thủ Dầu Một) với hàng trăm cơ sở sản xuất, đa số chủ nhân các lò sản xuất gốm sứ là người Việt gốc Hoa.
Cũng như các làng nghề điêu khắc, sơn mài, làng nghề gốm sứ Bình Dương không chỉ làm ra của cải, đóng góp vào giá trị sự tăng trưởng kinh tế, mà còn là sự thể hiện nét văn hóa, lịch sử truyền thống của Bình Dương.
Trên đất Bình Dương hiện nay có ba làng nghề sản xuất gốm sứ khá tập trung là: Tân Phước Khánh (Tân Uyên), Lái Thiêu (Thuận An) và Chánh Nghĩa (Thị xã Thủ Dầu Một) với hàng trăm cơ sở sản xuất, đa số chủ nhân các lò sản xuất gốm sứ là người Việt gốc Hoa.
Sự xuất hiện của các làng nghề gốm trên đất Bình Dương
Bát đĩa làm bằng gốm
Thời gian xuất hiện các lò gốm đầu tiên dẫn đến hình thành các làng nghề gốm, chưa có tài liệu nào khẳng định chính xác là tháng năm nào, nhưng chắc chắn các làng nghề gốm đã xuất hiện và tồn tại phát triển vào cuối thế kỷ 19. Tài liệu chứng minh cho việc này đã thể hiện rõ trong niên giám, địa chí Thủ Dầu Một do thực dân Pháp để lại có ghi lại rằng: “Cuối thế 19, đầu thế kỷ 20 ở Thủ Dầu Một còn có mỏ cao lanh, 10 lò gốm và nhiều mỏ đá” (Thủ Dầu Một đất lành chim đậu – Sở Văn hóa – Thông tin Bình Dương – NXB Văn Nghệ, 1999). Một vài sự kiện có thể đã diễn ra vào thời gian ấy gắn liền với sự hình thành các làng nghề gốm, có thể nêu ra như sau:
Làng nghề gốm Tân Phước Khánh (xưa thường gọi Tân Khánh): có vị trí gần vùng mỏ đất sét, rừng rậm nhiều củi thuận lợi cho việc làm lò gốm. Vào năm 1867, miếu Bà Thiên Hậu Thánh Mẫu (thường gọi là Chùa Bà) được xây dựng, trong số đồ cúng nhân ngày khánh thành “Chùa Bà” có cái lư hương và bình cắm hoa bằng gốm. Trên chiếc bình cắm hoa ngoài vẽ hình bát tiên, còn có ghi chữ Hán tự Tân Khánh Thôn. Điều này chứng tỏ rằng lò gốm ở Tân Khánh đã xuất hiện trước khi ngôi Chùa Bà được xây dựng.

Làng nghề gốm Lái Thiêu: Theo nhà văn, nhà nghiên cứu Sơn Nam và qua ý kiến của một số nghệ nhân gốm sứ thì nghề gốm du nhập vào Lái Thiêu do những người Hoa theo chân các đoàn thuyền buôn vào, hoặc đi qua bằng đường bộ từ Móng Cái sang vùng Gia Định lập nghiệp. Trong số lưu dân người Hoa đó có người vốn là thợ lò gốm, thấy vùng Lái Thiêu thuận lợi cho việc sản xuất gốm nên họ định cư và mở lò sản xuất gốm (Nguyễn Phan Quang – lịch sử Bình Dương qua niêm giám và địa chí Thủ Dầu Một của thực dân Pháp – Thủ Dầu Một đất lảnh chim đậu). Trong một số hiệu lò nổi tiếng từ xưa tới ngày nay có chủ lò Kiến Xuân ông Vương Thế Hùng cho biết rằng lò gốm của ông ta được truyền nối từ đời ông cố nội tên Vương Tổ từ Phước Kiến sang đây lập nghiệp đến nay đã trải qua trên 140 năm.
Còn tiếp