Chủ Nhật, 30 tháng 4, 2017

Gốm Việt và sự phát triển

Một trong những nước phương Đông có nguồn gốc văn hoá đến hàng ngàn năm, Việt Nam đã được thế giới công nhận về sự tuyệt vời và đa dạng về thủ công và kỹ năng của các nghệ nhân gốm. Hàng ngàn năm tuổi, ngành gốm sứ ở Việt Nam, thay vì biến mất, vẫn sống động, tồn tại song song với cuộc sống con người. Không phải ngẫu nhiên danh hiệu những ngôi làng gốm nổi tiếng luôn có mặt trong các bài hát dân gian và thể hiện giá trị của người Việt Nam.
Thời kì đỉnh cao

Hai tác giả Joh Guy và Joh Stevenson đã viết trong cuốn sách nổi tiếng Gốm Việt Nam - Một truyền thống riêng biệt rằng: “Gốm Việt Nam phát triển theo một chiều hướng riêng biệt, khác hoàn toàn với mọi cường quốc gốm sứ khác, kể cả Trung Quốc - nơi được mệnh danh là siêu cường về gốm sứ”. Trong đó, gốm Lý - Trần được đánh giá như đỉnh cao của nghệ thuật gốm Việt. Thời kỳ này, nghề gốm mới thực sự phát triển và đánh dấu giai đoạn hoàng kim. Nhiều làng gốm chất lượng, đạt giá trị thẩm mỹ được hình thành như: Bát Tràng (Hà Nội), Phù Lãng (Bắc Ninh), Hương Canh (Vĩnh Phúc)... Nhiều mẫu gốm mới, kỹ thuật chế tác điêu luyện được sáng tạo và trở thành bí quyết cho thế hệ sau. Nổi bật phải kể đến gốm men trắng thời Lý, được đánh giá độc nhất chỉ có tại Việt Nam, hay gốm men xanh, gốm men nâu thời Trần đều mang đến giá trị văn hóa, nghệ thuật cũng như Phật giáo thời Lý - Trần.

Ngày nay, những người làm nghề hay nhà nghiên cứu đều đánh giá cao giá trị của gốm sứ thời Lý - Trần. Một số nghệ nhân làng gốm Bát Tràng, hay lò gốm tại Biên Hòa đã tạo sản phẩm gốm mang mẫu mã hoa văn thời kỳ này để phục vụ khách du lịch. Theo nguyên Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam Phạm Quốc Quân: “Hiểu một cách thực dụng có thể cho rằng đây là sự sao chép, nhưng ở khía cạnh tích cực có thể hiểu như một cách bảo tồn giá trị nghệ thuật gốm truyền thống”.

Tuy nhiên, việc khôi phục, phát huy giá trị, hoa văn gốm thời Lý - Trần vẫn chỉ dừng lại ở sự tự phát của một số nghệ nhân và làng gốm truyền thống. Đội ngũ nghiên cứu về gốm sứ còn tản mát cũng là một trở ngại. Hiện nay, Đông Nam Á có Hiệp hội Nghiên cứu gốm sứ, có tạp chí chuyên ngành gốm sứ, nhưng ở Việt Nam chưa có tổ chức như vậy, nên tiếng nói trong cộng đồng chưa mạnh mẽ để thúc đẩy nghiên cứu, phục hồi, phát huy bản sắc của gốm sứ Việt. PGS.TS. Phạm Quốc Quân cho rằng: “Định hướng rõ ràng sẽ tạo ra tiền đề vật chất và tinh thần, từ đó có thể bảo tồn giá trị gốm truyền thống, mặc dù đã có nhiều người tâm huyết, như nghệ nhân Trần Độ, Vũ Đức Thắng... tại làng gốm Bát Tràng đang làm rất tốt việc khôi phục, phát huy và truyền dạy cho thế hệ sau”.
Gốm sứ Việt Nam

Cần phải tạo thêm sự tương tác

Hiện nay, việc phát triển, đưa mẫu mã hoa văn gốm thời Lý - Trần vào cuộc sống còn thiếu chiến lược. Trong khi đó, với sự phát triển của xã hội cộng thêm cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, vật liệu mới, nghề làm gốm trở nên công nghiệp hóa, kỹ thuật chế tác và các mẫu hoa văn cổ mai một dần. Mặt khác, sự xuất hiện tràn lan của gốm sứ Trung Quốc lấn át cả về mặt thị trường, công nghệ trong sản xuất của các làng nghề truyền thống. Theo các nhà nghiên cứu, để phát huy được sự khác biệt của gốm sứ Việt Nam cần có sự nghiên cứu, tổ chức sản xuất để cho ra sản phẩm đúng với tinh thần gốm sứ Việt từ xưa tới nay và tạo được thị trường xuất khẩu, thị trường cho những người sưu tầm gốm Việt.


Ngày nay, gốm hiện đại được dựa trên các kỹ thuật gốm sứ truyền thống đã hoạt động hàng trăm năm. Những gì trong quá khứ là một nghề thủ công huy hoàng đòi hỏi kỹ năng tuyệt vời ngày hôm nay là một ngành công nghiệp khác đang phát triển. Bên cạnh các trung tâm cổ xưa, vẫn đang hoạt động và tiếp tục sử dụng các phương pháp truyền thống, nhiều cộng đồng mới và cũ đã bắt đầu sử dụng các kỹ thuật nhập khẩu, như đúc, sử dụng các chất tráng men hóa học, và đốt trong lò nung điện hoặc lò điện. Các hình dạng và trang trí của nhiều sản phẩm hiện nay theo thị hiếu thẩm mỹ quốc tế. Gốm truyền thống, tuy nhiên, giữ lại giá trị của nó như là một cây cổ thụ giữa một khu rừng công nghiệp.

Thứ Sáu, 28 tháng 4, 2017

Làng gốm Cổ Chiên Vĩnh Long

Từ cầu Mỹ Thuận, nơi con sông Cổ Chiên tách ra từ sông Tiền đến sông Măng Thít, du khách sẽ thấy hơn 1.000 lò gốm được xây dựng gần nhau trông giống như một thành phố cổ.
Trong hơn một thế kỷ, người dân địa phương ở Vĩnh Long đã biết cách sử dụng đất sét trên bờ sông Cổ Chiên để làm đồ gốm gia đình. Sau đó họ phát triển nghề thủ công và thành lập khu vực chuyên sản xuất gạch ngói lớn nhất ở đồng bằng sông Cửu Long. Trong những năm 1980, người dân bắt đầu sản xuất các sản phẩm gốm sứ gia đình và nghệ thuật.
Làng gạch trải dài hơn 30km thuộc thành phố Vĩnh Long, huyện Long Hồ và Mang Thít. Khi nghề làm gạch thủ công truyền thống ở đây còn thịnh, mỗi nhà có đến hai, ba miệng lò. Đến mùa nung các cột khói trắng ngút trời, mang đến cuộc sống no đủ cho người dân nơi đây.
Tuy nhiên, cũng như những làng nghề thủ công truyền thống khác, qua thời gian, khi các kỹ thuật và hệ thống lò công nghệ cao được đầu tư thì các lò gạch truyền thống dần đi vào quên lãng. Hiện nay, dọc kênh Thầy Cai, Mang Thít vẫn còn hàng trăm lò gạch ngày nào san sát nhau đã rêu phong, nhìn từ trên cao trong giống như tòa lâu đài cổ trong truyện cổ tích.
 
Gia đình làm gốm
Nghề gốm Cổ Chiên tiếp bước….
Dù là đứa con tinh thần sinh sau đẻ muộn nhưng nghề gốm ở Vĩnh Long lại có nét độc đáo riêng đó là dòng gốm không men. Không có màu đỏ ói như gạch mà gốm nơi đây có màu đặt trưng, màu của rơm rạ, đặc biệt đất Vĩnh Long chỉ kết khối ở 900 độ C. Gốm đất Vĩnh Long với màu tự nhiên đặt trưng này đã trở thành dòng sản phẩm được nhiều người ưa chuộng, kể cả khách quốc tế.

Không chỉ ấn tượng bởi màu gốm Cổ Chiên, còn có công trình kiến trúc đặc sắc là nhà gốm. Ngôi nhà được xây dựng bởi chính đôi bàn tay tài hoa của người thợ gốm, với sự đầu tư tỉ mỉ, toàn bộ ngôi nhà, từ mái, hàng rào, tường đến những vật dụng bên trong đều hoàn toàn bằng gốm. Thoạt nhìn ngôi nhà trông rất dễ vỡ nhưng lại rất chắc chắn và hòa quyện sắc màu.

Từ một làng nghề thủ công trở thành một điểm du lịch hấp dẫnTừ một làng nghề thủ công trở thành một điểm du lịch hấp dẫn
Qua thời gian, dù là làng nghề truyền thống nào cũng sẽ thay đổi diện mạo, giờ đây người thợ không còn nung gốm bằng lò than thủ công như trước mà thay bằng lò gas, sấy sản phẩm bằng điện. Có nhiều người đã bỏ nghề vất vả này để chuyển sang hình thức kinh doanh mới… Và rồi Vĩnh Long mất dần đi vẻ lặng lẽ ngày nào.

Hy vọng rằng, chính quyền sẽ tìm ra cách để duy trì hoạt động kinh doanh gốm sứ, để những nghệ nhân sẽ tiếp tục bám trụ với nghề. Đây không chỉ là kế sinh nhai mà còn là hoạt động bảo tồn những nét đặc sắc văn hóa của dân tộc.


Thứ Ba, 25 tháng 4, 2017

Nghề gốm tại Việt Nam ( phần 2)

Tiếp theo ở phần một, chúng tôi tiếp tục giới thiệu với các bạn những làng gốm nổi tiếng ở Việt Nam không chỉ để hiểu rõ hơn về truyền thống văn hóa của đất nước, mà còn là để cảm nhận sự khác biệt, cũng như đa dạng nét đẹp nghệ thuật làm gốm

Làng Gốm Bàu Trúc (Bình Thuận) là gốm của người Chăm, không dùng bàn xoay mà tạo hình bằng tay hoàn toàn, sp nung bằng cách chất đống ngoài trời, phủ rơm và củi rồi nung như kiểu nướng mọi ở 700-900 độ c. Gốm nung ra có màu tự nhiên của xương đất và màu không đồng đều do bị lửa cháy táp. Gốm Bàu Trúc không phủ men và không cái nào giống cái nào.
Làng Gốm Cây Mai (Sài Gòn) hình thành từ bộ phận người Hoa sang nhập nhập cư tại Việt Nam. Gốm cây mai có nét đặc trưng rất riêng và thường phối hợp các màu xanh coban, xanh rêu, nâu da lươn trên sản phẩm. Sp cũng đa dạng từ tô, chén, bát đến chậu cảnh, tượng. Tuy nhiên, do sự đô thị hóa của Sài Gòn nên các lò gốm di chuyển về Lái Thiêu, Bình Dương nên ngày nay Gốm Cây Mai đã suy tàn. Ta vẫn còn bắt gặp nhiều sp gốm cây mai trên nóc và tường các chùa ở Q5, Q6 và đây cũng là loại Gốm được dân sưu tầm ưa chuộng.
 
Bình đựng trà hoa văn đặc sắc
Làng Gốm Biên Hòa (Đồng Nai) là đứa con của Gốm Cây Mai và Gốm nước Pháp do 1 cặp vợ chồng người Pháp đã du nhập nghệ thuật trang trí và cách bí quyết men màu từ gốm thủ công Pháp kết hợp với nguyên liệu và tinh hoa của Gốm Cây Mai Việt Nam. Gốm Biên Hòa nhờ vậy không giống với bất kỳ dòng gốm nào trên thế giới. Thời kỳ đỉnh cao Gốm Biên Hòa sx rất nhiểu hàng mỹ nghệ để xuất khẩu như đôn, chậu, voi, con thú, tượng với nghệ thuật khắc chìm, trổ lộng, vẽ men, kết hợp nhiều màu men trên sp. Gốm Biên Hòa là loại sành xốp có sương đất màu ngà, nung nhẹ lửa. Ngày nay Gốm Biên Hòa vẫn phát triển nhưng đã qua thời hoàng kim, vẫn chủ yếu phục vụ cho xuất khẩu và sp chủ yếu làm theo đơn đặt hàng, không còn đa dạng như trước và cũng giảm bớt yếu tố nghệ thuật, cầu kỳ và tinh tế, vì vậy những sp Gốm Biên Hòa xưa cũng rất được giới chơi cổ vật sưu tầm.
Làng Gốm Lái Thiêu – Tân Phước Khánh – Thủ Dầu Một (Bình Dương) hình thành từ việc nhập cư của người Hoa và đem nghề gốm từ Cảnh Đức Chấn, Quảng Châu sang Việt Nam, là kế thừa của Gốm Cây Mai. Các cơ sở sx không tập trung mà rải rác ở 3 khu vực chính như trên. Sx đồ gia dụng, gốm mỹ nghệ, phát triển cho đến ngày nay và là cái nôi của những đại gia gốm sứ Việt Nam như Minh Long 1, Cường Phát, Đại Hồng Phát, ..v…v…. Gốm ở Bình Dương không còn phát triển theo quy mô sx nhỏ lẻ như các làng nghề trên mà đã hình thành các công ty lớn mạnh phục vụ chủ yếu cho thị trường xuất khẩu và đi theo hướng sx công nghiệp, đầu tư máy móc cơ sở hiện đại. Một số công ty Gốm sứ của Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật cũng đầu tư mở nhà máy ở Bình Dương. Gốm Bình Dương có một bước chuyển mình rất mạnh nhưng vô tình đã lạc mất những dấu xưa tích cũ, những đặc trưng khác biệt vốn có của nó và có thể nói làng nghề Lái Thiêu kế thừa Gốm Cây Mai đã không còn nữa.
Làng Gốm Vĩnh Long (Vĩnh Long) chuyên sx hàng gốm sân vườn từ đất sét đỏ, do đặc tính nhiễm phèn mà khi nung xong sp gốm đỏ Vĩnh Long thường có các vân trắng do phèn tạo thành. Gốm Vĩnh Long chuyên sx các mặt hàng có quy cách lớn từ đất đỏ và phục vụ cho xuất khẫu. Tuy nhiên việc quyết định di rời làng gốm ra khu công nghiệp đang đẩy làng Gốm này đến nguy cơ giải thể do xuất khẫu suy giảm ảnh hưởng đến khả năng tài chính của các chủ lò cộng thêm chính sách đền bù hỗ trợ không hợp lý gây khó khăn cho việc chuyển đổi của họ.


Trải qua rất nhiều biến động và thăng trầm, những làng nghề gốm truyền thống của Việt Nam vẫn tiếp tục đứng vững và phát triển, đóng góp ngày càng lớn vào tổng sản lượng kim ngạch của đất nước. Đây không chỉ là những lợi ích thiết thực về mặt kinh tế mà còn là nét đẹp văn hóa truyền thống đang dần bị mai một cần được bảo tồn, duy trì và phát triển

Thứ Hai, 24 tháng 4, 2017

Đến thăm làng gốm truyền thống Thanh Hà

Gốm sứ không chỉ là một nghề thủ công truyền thống ở Việt Nam mà còn là phương tiện kiếm sống quan trọng. Làng gốm Thanh Hà ở Hội An là một ví dụ nổi tiếng về loại hình cơ sở này nhằm thúc đẩy truyền thống cũng như việc làm. Làng gốm Thanh Hà ở Hội An nằm ở tỉnh Quảng Nam thuộc phường Thanh Hà; Hội An nằm cách 3 km về phía Đông. Làng gốm có di sản lịch sử lâu dài gắn liền với nó.

Với nét văn hóa , những con người cần cù hiếu khách. Dường như trên từng con đường, từng góc phố của xứ Quảng Nam đều gợi lên hình bóng của quá khứ phồn thịnh của đô thị cổ Hồi An và làng gốm Thanh Hà là một trong những nơi như thế. Ở đó, dường như vẫn còn mang nặng một tấm lòng quê và sự hoài cổ về một làng nghề đã làm nên sự tự hào cho những người con xứ Quảng.

Nếu phương Bắc tự hào có gốm Phù Lãng, Bát Tràng thì làng gốm Thanh Hà chính là niềm kiêu hãnh của người dân xứ Quảng. Làng nghề có hơn 500 tuổi này nằm ven con sông Thu Bồn hiền hòa, thuộc địa bàn xã Cẩm Hà, cách khu đô thị cổ Hội An khoảng 1 km. Ngược về lịch sử, vào đầu thế kỷ XVI, cư dân vùng Thanh Hóa theo chân Chúa Nguyễn vào Nam lập nghiệp đã chọn vùng đất Thanh Hà ngày nay – nơi có nhiều đất sét để định cư, sinh sống bằng nghề gốm. Trong hai thế kỷ XVII và XVIII, các sản phẩm gốm của làng Thanh Hà đã tạo được uy tín trên thị trường lúc bấy giờ và trở thành một trong những mặt hàng chủ yếu cung cấp cho các thương gia khắp nơi đến giao thương tại phố cảng Hội An. Đặc biệt, Thanh Hà chính là nơi sản xuất và cung cấp gạch, ngói lợp cho các ngôi nhà cổ ở Hội An – nơi được Unesco công nhận là Di sản Văn hóa thế giới.
 
Lò nung vào buổi sớm
Đến thăm làng, ngoài việc thỏa sức lựa chọn các sản phẩm lưu niệm bằng gốm, du khách còn được tận mắt chứng kiến những thao tác điêu luyện từ đôi bàn tay tài hoa của các nghệ nhân. Qua bàn tay của những người thợ lành nghề, có kỹ thuật cao, những viên đất sét vô hồn bỗng chốc hóa thân thành những tác phẩm tuyệt vời. Quy trình làm gốm của Thanh Hà rất khắc khe. Ban đầu, đất sét phải loại bỏ tạp chất rất kỹ rồi được nhồi cho thật đều, thật mịn. Tiếp theo, đất sét được đưa lên bàn xoay để tạo dáng sản phẩm gọi là “chuốt” gốm. Đây là khâu khó nhất của quy trình làm gốm và chỉ có người thợ có từ 4 đến 5 năm nghề mới có khả năng đảm nhiệm. Sau khi hoàn thiện các khâu chỉnh sửa sản phẩm, các tác phẩm sẽ được phơi khô rồi đưa vào lò nung. Nếu tuân thủ đầy đủ các tiêu chuẩn đưa ra, sản phẩm khi ra lò sẽ có màu đặc trưng của gốm Thanh Hà: màu gạch đỏ.

Các sản phẩm chủ yếu của làng là đồ dùng hằng ngày như chén, bát, chum, vại, bình hoa, chậu cảnh, hình thù các con giống... với nhiều kiểu dáng đa dạng và phong phú về màu sắc. Đặc biệt, để phục vụ cho nhu cầu của khách du lịch, làng cũng đã cho ra đời hàng loạt các sản phẩm lưu niệm bằng gốm rất đẹp mắt như mặt nạ gốm, phù điêu, gạt tàn, tò he...

Cho đến nay, Thanh Hà vẫn tuân thủ các quy trình sản xuất gốm truyền thống. Chính điều đó đã tạo ra một nét đặc biệt trong các sản phẩm của làng. Trong xu thế hội nhập, các sản phẩm được làm ra từ tình yêu quê hương đất mẹ, từ bàn tay tài hoa của người thợ thủ công đã có mặt khắp nơi, góp phần phát triển kinh tế địa phương và quảng bá hình ảnh du lịch Hội An nói riêng và văn hóa xứ Quảng Nam nói chung.


Hy vọng rằng, tỉnh Quảng Nam, Hội An và Thanh Hà sẽ tìm ra cách để duy trì hoạt động kinh doanh gốm sứ, để những nghệ nhân sẽ tiếp tục bám trụ với nghề. Đây không chỉ là kế sinh nhai mà còn là hoạt động bảo tồn những nét đặc sắc văn hóa của dân tộc.

Nghề gốm tại Việt Nam ( phần 1)

Một trong những nước phương Đông có nguồn gốc văn hoá truy tìm hàng ngàn năm, Việt Nam đã được thế giới công nhận về sự tuyệt vời, đa dạng về thủ công và kỹ năng của các nghệ nhân gốm. Hàng ngàn năm tuổi, ngành gốm sứ ở Việt Nam, thay vì biến mất, vẫn sống động, song song với cuộc sống con người. Không phải ngẫu nhiên danh hiệu những ngôi làng gốm nổi tiếng luôn có mặt trong các bài hát dân gian và thể hiện giá trị của người Việt Nam. Thông qua bài viết này chúng tôi muốn giới thiệu các bạn những làng nghề gốm nổi tiếng tại Việt Nam.
Làng gốm Chu Đậu (huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương): là làng gốm lâu đời nhất và đã suy tàn, thời hưng thịnh, gốm CĐ được xuất khẩu sang Châu Âu, Nhật Bản. Gốm sứ Chu Đậu đạt đỉnh cao về nghệ thuật vẽ tay cũng như nhiều dòng men quý mà tới nay hầu hết đã thất truyền. Hiện nay tại các bảo tang ở Châu Âu vẫn còn lưu giữ một số hiện vật của Gốm Chu Đậu. Việc tìm thấy loại gốm này từ xác các con tàu đắm được trục vớt ở vùng biển Cù Lao Chàm cho thấy từ xa xưa gốm Việt Nam đã vang danh thế giới và được xuất ngoại. Có thể nói, những j tinh hoa nhất, Việt Nam nhất hội tụ đủ ở Gốm Chu Đậu.

Làng Gốm Thanh Hà (Hội An) sx gốm mỹ nghệ từ loại đất sét rất đặc biệt khi nung cho ra sp màu đỏ cam, xốp và nhẹ, nung bằng lò củi, tạo hình sp bằng khuôn và trang trí bằng cách khắc lộng lên sp. Là làng Gốm nằm ven sông Thu Bồn và ngày nay chuyên làm hàng đèn, tranh, tượng trang trí các loại.
đèn treo, đèn ốp tường,đèn trang trí
Gốm Thanh hà đơn sơ, mộc mạc
Làng gốm Bát Tràng (huyện Gia Lâm Hà Nội): Những thợ gốm lành nghề từ Chu Đậu đã sang Bát Tràng lập nghiệp, truyền nghề. Bát Tràng là làng gốm nằm bên sông Hồng, khi xưa là một gò đất sét cao lại ở gần sông nên thuận tiện cho việc làm gốm và giao thông, cách trung tâm Hà Nội 15 km. Gốm Bát Tràng trải qua nhiều thăng trầm và phát triển cho đến ngày nay. Là làng gốm duy nhất tại Việt Nam lưu giữ được nhiều dòng men cổ. Gốm sứ Bát Tràng được sx sản phẩm theo lối bán thủ công. Sp được tạo hình từ khuôn và nung trong lò gas (trước đây nung bằng lò bầu dung củi). Đất sét để sx là đất sét trắng. Sp của làng nghề này kế thừa nhiều tinh hoa từ Gốm Chu Đậu và cũng ảnh hưởng nhiều của Gốm Trung Hoa. Bát Tràng ngày nay có hơn 600 nhà sản xuất và hầu hết là hộ gia đình sx nhỏ và vừa.
Làng gốm Phù Lãng (huyện Quế Võ Tỉnh Bắc Ninh): Hình thành và phát triển song song với Gốm Bát Tràng, nhưng gốm sành Phù Lãng chủ yếu sx gốm gia dụng, chum, vại, tiểu sành từ đất sét đỏ, sp không dung khuôn mà tạo hình trên bàn xoay. Men màu cũng không phong phú như Bát Tràng mà chủ yếu là men da lươn, men nước dưa, phần lớn để mộc không phủ men. Sp của Phù Lãng nung bằng lò bầu dùng than củi. Làng gốm này có giai đoạn suy thoái và gần như mai một nhưng nhờ có thế hệ các nghệ nhân trẻ được sinh ra từ làng, được đào tạo từ trường ĐH mỹ thuật Hà Nội đã trở về thổi hồn mới vào Gốm cũ, chuyển hướng sang sx gốm Mỹ Nghệ và bắt đầu sử dụng nhiều màu sắc hơn để trang trí sp. Gốm Phù Lãng ngày nay đã đa dạng hơn và thoát khỏi cảnh suy thoái, tuy nhiên phát triển vẫn chưa nhanh và chưa đồng đều.
Gốm Phũ Lãng chuyên làm hàng mỹ nghệ với sp độc bản do được vuốt bằng tay, màu xương đất nâu đỏ đanh chắc óng ánh khi gặp nắng do nung nhiệt cao.
Làng Gốm Thổ Hà (tỉnh Bắc Ninh): cùng với Bát Tràng, Phù Lãng, làng Thổ Hà cũng nổi tiếng một thời với các sp gốm mộc phủ men da lươn, đa phần là gốm dân dụng như lu, chậu,.v…v…. Sp có nhiều nét tương đồng với Gốm Phù Lãng nhưng đến nay làng gốm này đã suy tàn.

Làng Gốm Phước Tích (tỉnh Thừa Thiên Huế) sx gốm phục vụ cho cung đình Triều Nguyễn nhưng chủ yếu là gốm gia dụng như lu, chậu, nồi đất, siêu thuốc. Làng Gốm này đã suy tàn và đến nay đang được khôi phục lại theo hướng sx Gốm Mỹ Nghệ nhưng vẫn chưa gặt hái nhiều thành công. Loại đất sét làm gốm ở đây sau khi nung có màu xám đen.




(Còn tiếp)

Chủ Nhật, 23 tháng 4, 2017

Nghề gốm tại Biên Hòa

Rất ít người biết rằng sản phẩm gốm sứ ở Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai nổi tiếng cả trong và ngoài nước từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Đến nay, các loại sản phẩm gốm ở Biên Hòa trong thời kỳ đó vẫn là những thứ rất quý giá và hiếm có đối với những ai quan tâm đến việc thu gom đồ gốm cổ.
Nằm dọc theo lưu vực sông Rồng thơ mộng Đồng Nai, thành phố Biên Hòa đã được biết đến với nghề thủ công truyền thống của nghề thủ công đã tồn tại trong khoảng 300 năm. Ngày nay, nghề này chỉ được thực hiện ở phường Bửu Long và Tân Vân ở xã Tân Hiệp và Hòa An, nơi có khoảng 400 xưởng sản xuất nhỏ và lớn của gia đình.

Biên Hòa là nơi mà Trường dạy nghề Biên Hòa, trường dạy nghề gốm đầu tiên của Đông Dương, được thành lập năm 1903. Năm 1913, trường được đổi tên thành Trường Mỹ thuật Biên Hòa. Năm 1923, cặp vợ chồng, Robert Balick và Mariettee Balick, quản lý ngôi trường, đánh dấu cột mốc quan trọng cho gốm Biên Hòa. Làm việc với tư cách Trưởng ban gốm của trường, Mariette Balick đã đưa ra kế hoạch phát triển nghề thủ công gốm sứ trong khu vực với trọng tâm là sản xuất gốm với nhiều màu sắc khác nhau, hoa văn tinh xảo và tráng men độc đáo. Sau đó, Mariette Balick và các đồng nghiệp Việt Nam đã thành công trong việc tạo ra một số loại tráng men như đồng và xanh men từ chất liệu tự nhiên, như tro xỉ, cát ở Đà Nẵng và laterit.
Đồ gia dụng từ gốm

Vào đầu thế kỷ 20, gốm mỹ nghệ Biên Hòa nổi tiếng ở cả Châu Á và Châu Âu. Năm 1925, các sản phẩm gốm của Trường mỹ thuật Biên Hòa đã được trưng bày tại một cuộc triển lãm quốc tế tổ chức tại Paris và là một thành công lớn. Tất cả các sản phẩm gốm được bán ra và trường nhận được nhiều đơn đặt hàng từ khách hàng. Tại triển lãm này, gốm Biên Hòa đã được Chính phủ Pháp trao tặng bằng khen và một huy chương vàng từ ban tổ chức triển lãm. Tuy nhiên, không phải cho đến khi triển lãm quốc tế được tổ chức vào năm 1933 ở Paris, Gốm sứ Biên Hòa thực sự khẳng định vị trí của mình tại Pháp và các thị trường đồ gốm khác.

Kể từ đó, sản phẩm gốm Biên Hòa được trưng bày tại nhiều triển lãm lớn cả trong và ngoài nước như: Nagoya (Nhật Bản - 1937), Hà Nội (1938), Sài Gòn (1942), Bangkok (Thái Lan - 1953 và 1955) và PhnomPenh ( Campuchia - 1957). Giai đoạn này đã đánh dấu sự khởi đầu của sự phát triển thịnh vượng của gốm Biên Hòa.

Để giải thích nguyên nhân vì sao đồ gốm Biên Hòa được ưa chuộng trên thị trường quốc tế, Vong Khieng, Tổng thư ký Hiệp hội Gốm mỹ nghệ Đồng Nai cho hay: "Gốm Biên Hòa đẹp và độc đáo trong cả kiểu dáng lẫn hoa văn vì đây là sản phẩm có pha trộn ba loại gốm của Việt Nam, Trung Hoa và Chăm ". Hiện nay, các hội thảo ở Biên Hòa sản xuất hai loại gốm sứ lớn, bao gồm gốm mỹ thuật và đồ gốm bằng đất sét trắng với kỹ thuật đánh bóng dưới nước và trực tiếp tạo ra các mẫu hoa văn trên gốm và gốm đất sét đen ở nhiệt độ cao .

Chúng tôi ghé lò gốm Phat Thanh với tổng diện tích gần 5.000m2 tại phường Tân Vân. Với 30 máy, lò nung có thể sản xuất khoảng 300 sản phẩm mỗi ngày. Trong khi đưa chúng tôi đến khu vực sản xuất gốm, nghệ nhân Nguyễn Hữu Tân, chủ lò gốm Thành Thành, cho biết: "Đây là lò sấy duy nhất của tôi. Đã có lần chúng tôi không có đủ sản phẩm gốm để cung cấp cho thị trường. Tôi đã tham gia vào nghề này gần 50 năm nên tôi luôn luôn ấp ủ việc khôi phục nghề thủ công truyền thống của tổ tiên tôi. "

 Mặc dù doanh thu của nghề thủ công mỹ nghệ tại Biên Hòa đã đạt khoảng 1 triệu USD / năm, nhưng con số này khiêm tốn so với 10 năm trước. Để tiếp tục phát triển nghề thủ công, nó cần những nỗ lực và sự quyết tâm của các nghệ nhân và sự hỗ trợ và chính sách lành mạnh của chính quyền.

Thứ Sáu, 21 tháng 4, 2017

Nét đẹp gốm sứ Chu Đậu

Theo nhiều chuyên gia và sử gia, gốm sứ không chỉ là biểu tượng của văn hoá mà còn là biểu tượng của nền văn minh mọi quốc gia. Sớm thành lập và phát triển vượt bậc, Chu Đậu xứng đáng với danh xưng là một trong những làng gốm cổ nhất Việt Nam.
Một ngôi làng nhỏ nằm trên con sông Thái Bình giống như mơ của xã Thái Tân, huyện Nam Sách, Chu Đậu nổi tiếng khắp thế giới về đồ gốm thanh lịch cao cấp. Đồ gốm của làng không chỉ được thừa hưởng tinh hoa của nghề gốm trong các triều đại Lý-Trần mà còn phát triển thành một loại hình gốm có họa tiết đẹp và men sáng. Trong năm 1992, khu di tích Chu Đậu đã được công nhận là di tích di tích quốc gia.
Đồ gốm sứ tráng men đại diện cho một trong những di sản văn hoá quan trọng nhất của lịch sử đất nước. Gốm sứ từ làng bắt đầu đặt tên vào cuối thế kỷ 14 và ngày càng trở nên phổ biến trong thế kỷ 15 và 16. Sản phẩm bao gồm từ bát, đĩa thú vị, bộ trà, bình, chậu, chậu vôi, hương đốt, trong số những người khác. Những viên ngọc nổi tiếng nhất của thời kỳ Chu Dậu là trong suốt, màu xanh, xanh lam, xanh lục, xanh lá cây, vàng nhạt, màu vàng nhạt và ba màu (xanh lá cây, đỏ và vàng) với những hình ảnh động vật, chim chóc và hoa. Hình dạng tự nhiên của đồ gốm, màu sáng và rõ ràng men, đơn giản là những mẫu hoa văn đẹp đã thể hiện văn hoá dân tộc Việt Nam. Những mẫu thiết kế gốm sứ của cuộc sống hàng ngày do các họa sỹ tài năng vẽ nên đã phản ánh nền văn minh Sông Hồng - nền văn minh lúa nước.
Mộc mạc gốm Chu Đậu

Làng gốm bị phá hủy trong chiến tranh giữa triều đại Mac và Trinh vào thế kỷ 17. Sau khi trải qua những cuộc chiến tranh, Chu Đậu đã được phục hồi bởi những bàn tay khéo léo và yêu thương của những thợ gốm đã làm cho kỹ năng của nhiều thế hệ thợ thủ công hiện nay đang đứng sau Xưởng Gốm Chu Đậu với sứ mệnh khôi phục các họa tiết trang trí cổ và kính, Trên thị trường quốc tế dưới thương hiệu gốm Chu Đậu nổi tiếng.
Hiện nay, nhiều mẫu gốm Chu Đậu đã được trưng bày tại 46 viện bảo tàng nổi tiếng của 32 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Sản phẩm gốm Chu Đậu đã được trưng bày tại 46 viện bảo tàng trên thế giới và xuất khẩu sang 15 nước, mang lại doanh thu hàng năm hàng chục tỷ đồng.
Sự phổ biến của gốm Chu Đậu đã mang lại sinh kế cho nhiều người dân địa phương và mang lại doanh thu đáng kể cho cộng đồng. Năm 2012, doanh thu của Xí nghiệp gốm Chu Đậu (nay là Công ty Cổ phần gốm Chu Đậu) đạt 25 tỷ đồng. Ông Nguyễn Văn Lưu, giám đốc công ty cho biết, trong suốt 10 năm hoạt động, họ đã tạo việc làm cho khoảng 600 nhân viên địa phương, mỗi tháng kiếm được 2,5-5 triệu đồng mỗi nhân viên.
Chu Đậu là một trong những làng gốm cổ nhất ở Việt Nam là một trong những người đầu tiên giúp phát triển các làng gốm khác. Tham quan làng sẽ đem lại cho du khách cơ hội để thưởng ngoạn và khám phá những nét văn hóa thú vị của làng. Gốm Chu Đậu đã thấm nhập vào nhân vật Văn hoá Việt Nam những đặc tính của con người như Đạo Phật, Đạo giáo, Khổng học và Tôn giáo địa phương. Khách sẽ được chứng kiến ​​vẻ đẹp của tất cả các sản phẩm gốm được thu thập từ vụ đắm tàu ​​ở Cù Lao Chàm. Họ sẽ có thể nghiên cứu các dự án khảo cổ học, nghệ thuật gốm của nền văn minh Sông Hồng, và tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất của mình trong chuyến đi này bao gồm các hoạt động như vẽ hình, vẽ tranh, viết thư pháp, và ký vào đồ gốm.


Các chương trình du lịch sẽ tăng doanh thu du lịch, góp phần tích cực vào việc phổ biến các giá trị văn hóa của làng nghề cũng như bảo tồn di sản văn hoá quốc gia. Bên cạnh đó, cảnh quan thiên nhiên của đồng bằng miền Nam duyên dáng và hiếu khách là một trải nghiệm hoàn toàn mới mà du khách chắc chắn sẽ hoan nghênh.

Chủ Nhật, 16 tháng 4, 2017

Đặc trưng gốm Minh Long

Sản xuất các sản phẩm sứ chất lượng cao đảm bảo an toàn sức khoẻ cho người tiêu dùng, làng gốm Bình Dương nổi tiếng khắp thế giới cùng với làng nghề Bát Tràng, Trắng An. Các làng này cũng thu hút nhiều tour du lịch đến Bình Dương và nhiều khách du lịch trong nước đi du lịch Việt Nam.
Các làng gốm ở Bình Dương nằm ở các xã Hưng Đỉnh, Thuận Giao, Bình Hòa ở huyện Thuận An và thị xã Thủ Dầu Một. Hiện nay, ngành công nghiệp gốm sứ ở Bình Dương có sự phát triển mạnh mẽ và đạt trình độ cao từ sản xuất đồ gia dụng đến các sản phẩm sứ công nghiệp.

Sản phẩm sứ Bình Dương nổi tiếng khắp thế giới cùng với làng gốm Bát Tràng, Tràng An, Biên Hòa ... Bên cạnh hàng trăm xưởng sản xuất gốm với phương pháp sản xuất thủ công truyền thống, Bình Dương có nhà sản xuất các sản phẩm sứ cao cấp Bằng cách sử dụng công nghệ hiện đại, máy móc và dây chuyền sản xuất. Đó là Công ty TNHH Minh Long 1
Gốm Minh Long

Minh Long 1 được sáng lập vào năm 1970 bởi Lý Ngọc Minh, một thợ thủ công dành thời gian cho các sản phẩm sứ. Ông là thế hệ thứ ba trong một gia đình có truyền thống làm đồ sứ. Nghiên cứu kinh nghiệm và công nghệ gốm của người tiền nhiệm cùng với việc nghiên cứu những công nghệ hiện đại không ngừng, ông đã làm ra những đồ sứ chất lượng cao. Tất cả những nỗ lực của ông đều tạo ra thương hiệu Minh Long 1.

Tính năng nổi bật của sản phẩm sứ Minh Long 1 là công nghệ màu ở nhiệt độ 1.250oC. Nó được cho là thành công đầu tiên trên thế giới bởi vì nhiều nhà sản xuất gốm sứ nổi tiếng trên thế giới thường màu ở nhiệt độ 850oC. Công nghệ này giúp người vẽ astisans vẽ bản vẽ không hư hỏng, sản phẩm có độ sáng. Ngoài ra, những hình ảnh chìm sâu vào trong men tạo không gian 3 chiều. Đây là một trong những công nghệ khó áp dụng vì khi vẽ ở nhiệt độ cao, men sẽ tan chảy, cấu trúc màu sẽ bị thay đổi, đường vẽ sẽ được di chuyển.
Sản phẩm sứ Minh Long 1 không chỉ đẹp mà còn an toàn cho sức khoẻ của người tiêu dùng. Họ thực sự thu hút nhiều khách du lịch quốc tế từ Nhật Bản, Hoa Kỳ, Châu Âu, vv


Nếu bạn có cơ hội đến thăm Bình Dương trong chuyến đi Việt Nam, bạn nên đến làng gốm Bình Dương, nơi bạn có thể thưởng thức đồ sứ đẹp và chất lượng cao hoặc mua một số sản phẩm làm quà tặng cho người thân của bạn.

Phù Lãng : thương hiệu gốm Việt

Phú Lãng đã trở thành một thương hiệu như Bát Tràng về sản phẩm gốm sứ. Tuy nhiên, nhờ khoảng cách từ trung tâm đô thị, phần lớn khung cảnh nguyên sơ cũng như sản xuất truyền thống đã di chuyển về phía trước trong nhiều thế kỷ mà không bị thương mại hóa quá mức. Qua thời gian, chỉ còn lại một vài gia đình tiếp tục truyền thống của họ. Sân được đóng gói bằng củi và đất sét. Trong nhà, có một bộ sưu tập đồ gốm lớn, từ bình hoa đến chậu trà. Bát Tràng đặc biệt nhờ sự đơn giản của nó: từ phong cách trang trí đến màu nâu tự nhiên của đất sét. Dân làng rất thân thiện: họ sẽ đưa bạn đến và cho bạn một chuyến đi nhanh để xem hoạt động của họ diễn ra như thế nào.
Nằm bên con sông Cầu thơ mộng, không nhộn nhịp, ồn ã như làng gốm Bát Tràng (Hà Nội), Phù Lãng trong mắt du khách là sự mộc mạc với những ngôi nhà gạch đỏ, mái gói đỏ rêu phong. Hai bên con đường trong làng những dãy chum vại, đồ gốm gia dụng… được xếp gọn gàng. Làng Phù Lãng gần như nhà nào cũng làm gốm và đi đến đâu cũng nghe tiếng máy quay bàn gốm cùng những người thợ cần mẫn làm việc như dồn hết tinh hoa của mình vào các sản phẩm.

Nghệ nhân làm việc

Theo sách Kinh Bắc - Hà Bắc, ông tổ nghề gốm Phù Lãng là Lưu Phong Tú. Vào cuối thời Lý, ông được triều đình cử đi sứ sang Trung Quốc. Trong thời gian đó, ông học được nghề làm gốm và truyền dạy cho người trong nước. Ban đầu, nghề này được truyền vào vùng dân cư đôi bờ sông Lục Đầu sau đó chuyển về vùng Vạn Kiếp (Hải Dương). Vào khoảng đầu thời Trần (thế kỷ XIII) nghề được truyền đến đất Phù Lãng Trung. Bà Trần Thị Giảng, năm nay hơn 70 tuổi, cho biết từ nhỏ đã thấy cả làng làm nghề gốm và bán đi khắp nơi. Lò gốm của gia đình bà cũng đã có hơn 100 năm tuổi: “Tôi làm gốm từ năm 13 tuổi, lúc đó đã biết vần đất và tước gôm cho thành hình. Ngày xưa nhà tôi làm chum. Ngày xưa làm gốm vất vả hơn, giờ có máy thì có bàn quay gốm bằng điên, trước đây phải quay bằng tay và làm đất bằng tay.”

Nếu gốm Thổ Hà lấy chất liệu từ đất sét xanh, Bát Tràng là sét trắng, thì gốm Phù Lãng lại có màu hồng đỏ gạch được tạo nên từ đất đỏ lấy từ chính địa phương minh. Anh Phạm Văn Thành, một nghệ nhân ở xóm Chùa, thôn Phấn Trung, xã Phù Lãng, cho biết: Sản phẩm Gốm Phù Lãng gồm 3 loại hình: Gốm dùng trong tín ngưỡng như: tượng Phật, lư hương và các đồ thờ cúng…Gốm gia dụng bao gồm những sản phẩm phục vụ cho đời sống hàng ngày của người dân như lọ, bình, ang, chum, vại, ống điếu, bình vôi… Gốm trang trí gồm lọ cắm hoa, bình trang trí, tranh gốm với những hình ảnh phong cảnh và sinh hoạt đặc trưng của làng quê Việt, ngoài ra còn các tạo hình khác như người, vật, nhà cửa… Theo anh Phạm Văn Thành “Đặc thù của gốm Phù Lãng là gốm thô và không dùng đến máy móc, khuôn in. Tất cả đều được làm bằng tay và nước men do mình tự chế và do độ nóng của lượng củi đốt.”

Khâu quan trọng nhất để có một sản phẩm gốm Phù Lãng đạt yêu cầu là kỹ thuật nung. Tuy gần vùng đất than Quảng Ninh nhưng ở Phù Lãng người ta vẫn sử dụng phương pháp truyền thống đó là dùng củi để nung gốm, nhờ sự biến nhiệt khác nhau tạo ra những vết táp trên bề mặt gốm mà không phương pháp nào có thể thay thế. Xương đất sét có màu hồng nhạt, khi nung ở nhiệt độ cao, xương gốm chuyển màu gan gà, với hai màu men chủ đạo là nâu vàng và nâu đen. Anh Phạm Văn Thành chia sẻ: nếu vẻ đẹp của gốm Bát Tràng là sự đa dạng về nước men, nét vẽ tinh tế, thì hồn cốt của gốm Phù Lãng được tạo nên từ sự dân dã, mộc mạc của nước men da lươn này. Dáng của gốm Phù Lãng mộc mạc, thô phác nhưng khỏe khoắn, chứa đựng vẻ đẹp nguyên sơ của đất với lửa. Đó cũng là thứ làm nên sức hút đặc biệt của gốm Phù Lãng: “Lò nung của gốm Phù Lãng khác so với những làng gốm khác… Như gốm Đông Triều (Quảng Ninh) thì là gốm xứ cao lanh, thì cần nhiệt độ cao; làng gốm Bát Tràng thì gốm sứ, được nung bằng ga và được đo bằng ga. Lò nung của Phù Lãng thì được người thợ theo dõi bằng mắt thường và kinh nghiệm của mình chứ không phải ai cũng nung được. Nâng nhiệt lên cao quá hoặc hạ thấp nhiệt quá thì cũng không được… Toàn bộ bằng mắt và cảm nhận. Khi tôi nhìn vào lo, thấy gồm được nung trong và nhìn độ men bóng sáng và khi đạt 1200 độ thì trong suốt. Để có một mẻ gốm thì tôi trực từ sáng khi bắt đầu nổi lửa đến chiều tối ngày mai. Khi nung được 24 tiếng thì bắt đầu tăng nhiệt và thêm 24 tiếng nữa chia thành nhiều giai đoạn để nâng nhiệt.”

Đến nay, các mặt hàng gốm của Phù Lãng đã phát triển khá đa dạng với nhiều loại sản phẩm và được người tiêu dùng trong nước và nước ngoài ưa chuộng. Sản phẩm gốm mỹ thuật của Phù Lãng hiện nay cũng đã được nhiều doanh nghiệp đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Canada, Italia… đặt hàng với số lượng không hề nhỏ. Đặc biệt mặt hàng gốm trang trí của Phù Lãng rất được khách hàng quốc tế yếu thích bởi nét đặc trưng là sử dụng phương pháp đắp nổi theo hình thức chạm bong, mà người Phù Lãng gọi là chạm kép các đề tài truyền thống như: tứ linh (Long, lân, quy, phụng), cảnh sinh hoạt và phong cảnh làng quê… Nhờ vậy, đời sống của người dân Phù Lãng đã có sự đổi thay rõ rệt, thu nhập của người dân hiện đạt trên 15 triệu đồng/người/năm.
Gìn giữ và phát triển nghề truyền thống của mình, các gia đình ở Phù Lãng luôn chú trọng việc dạy nghề cho thế hệ trẻ và khuyến khích con em mình học các trường mỹ thuật để phát huy hơn nữa tinh hoa của làng nghề, cũng như sáng tạo nghệ thuật tạo hình khối, hoa văn cho sản phẩm. Anh Phạm Văn Hoàng, năm nay 24 tuổi nhưng đã có 11 năm làm gốm và tốt nghiệp trường Đại học Mỹ Thuật Hà Nội, cho biết: “Tôi sinh ra và lớn lên ở đây nên thực sự rất yêu nghề làm gốm vì đây cũng là nghề được cha ông để lại và cũng nghĩ rằng đây cũng là một nghề tôi có thể kiếm sống sau này. Hiện tôi làm mỹ thuật, tạo hình khối cho sản phẩm và vào men. Tôi sẽ cố gắng gìn giữ nghề của gia đình và quê hương và phát triển gốm Phù Lãng hơn nữa.”

Hôm nay, Phù Lãng là điểm thu hút khách du lịch phổ biến, thu hút cả du khách Việt Nam và nước ngoài. Họ đến để khám phá ngôi làng và đồ gốm của nó. Đến Phú Lãng và tự làm một sản phẩm của riêng mình để tặng cho người bạn yêu như một món quà lưu niệm. Thợ gốm Phù Lãng luôn ở đó để chào đón bạn.

Thứ Bảy, 15 tháng 4, 2017

Chu Đậu gốm sứ

Tên Chu Đậu có nghĩa đen là "cầu cảng". Làng Chư Dầu ở tỉnh Hải Dương phía bắc chỉ được biết đến như là một trung tâm thương mại bận rộn cho đến khi có bằng chứng được khám phá ra rằng nó được sử dụng để sản xuất bình bằng gốm nổi tiếng trên toàn thế giới.

Nguyên liệu để làm gốm Chu Đậu là đất sét trắng được lấy từ vùng Trúc Thôn (thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Đất sét sau khi lấy về sẽ được hòa trong nước, sau đó lọc qua hệ thống máng dẫn và bể ngắn. Quá trình lắng lọc sẽ tạo ra hai hợp chất gồm lỏng và nhuyễn, thêm chất phụ gia rồi phối luyện thành hồ gốm. Gốm được lắng lọc càng lâu thì màu gốm càng bóng, đẹp và trong. Đất sau khi được luyện kỹ, đạt độ dẻo, mịn cần thiết sẽ được người thợ chuốt nặn trên bàn xoay. Sản phẩm gốm Chu Đậu từ xưa đến nay, từ khâu nặn, đúc đến trang trí hoa văn đều được làm thủ công với đôi bàn tay khéo léo, tài hoa của những nghệ nhân dày dạn kinh nghiệm. Điều này khiến cho gốm Chu Đậu không thể lẫn với các loại gốm khác.
 
Nghệ nhân tại Chu Đậu
Một trong những điểm nổi bật của gốm Chu Đậu là các đường nét hoa văn phản ánh đời sống, tín ngưỡng, triết lý và tâm hồn người Việt, trong đó chủ yếu là hình ảnh hoa sen, hoa cúc, chim Lạc Việt. Đặc biệt, hoa văn trên gốm Chu Đậu được trang trí theo phương pháp vẽ dưới men, tức là trang trí hoa văn trước rồi tráng men sau. Men gốm Chu Đậu được làm từ vỏ trấu, đa phần là men trắng trong, hoa lam, men lục, xanh nâu, tam thái.

Hiện gốm Chu Đậu chủ yếu được sản xuất theo phương pháp thủ công truyền thống với 3 dòng sản phẩm chính là hàng phục chế theo các mẫu gốm cổ, hàng gia dụng và hàng xuất khẩu. Trong đó nổi tiếng và được ưa chuộng nhất là bình gốm hoa lam (còn gọi là bình củ tỏi) và bình tỳ bà. Ngoài ra, những sản phẩm khác như: bình cúp Ngũ Hành, ấm rượu Rồng, hũ Hổ Phù… cũng là những sản phẩm làm nên thương hiệu gốm Chu Đậu. Sản phẩm của làng gốm Chu Đậu được xuất khẩu sang hơn 20 quốc gia và vùng lãnh thổ, đồng thời được trưng bày tại 46 bảo tàng của 32 nước trong khu vực và trên thế giới.

Cùng với việc khôi phục nghề gốm cổ, những năm gần đây, các doanh nghiệp và người dân ở Chu Đậu đã bắt đầu chú trọng phát triển du lịch làng nghề với nhiều hoạt động phục vụ nhu cầu tham quan, mua sắm của du khách như: xây dựng các gian trưng bày rộng hàng nghìn m2 để giới thiệu các sản phẩm phục chế các mẫu gốm cổ hay không gian vườn gốm thư pháp, nhà thờ Tổ gốm... Đến với Chu Đậu, du khách không chỉ được chiêm ngưỡng cảnh quan thiên nhiên thanh bình, yên ả của làng quê đồng bằng châu thổ sông Hồng mà còn có dịp tìm hiểu nghệ thuật làm gốm cổ xưa, trực tiếp tham gia vào quy trình sản xuất, tạo dáng, vẽ, viết chữ, ký tên lên sản phẩm để làm kỷ niệm. 


Trong quá trình khôi phục và khôi phục làng nghề truyền thống Chư Đậu, Nhà máy Gốm Chu Đậu - một thành viên của Tổng công ty Thương mại Hà Nội (xã Thái Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương) đã theo truyền thống huyền thoại của tổ tiên để kết hợp tinh hoa văn hoá Gốm Chu Đậu cổ với gốm nghệ thuật hiện đại. Sản phẩm gốm của nó đã được xuất khẩu sang 15 quốc gia trên thế giới, và việc làm đã được tạo ra cho hàng trăm nhân viên trong làng gốm Chu Đậu.

Thứ Năm, 13 tháng 4, 2017

Đặc sắc lịch sử gốm Biên Hòa

Ít ai biết rằng, gốm Biên Hòa (tỉnh Đồng Nai) đã từng vang danh trên làng gốm thế giới vào những năm cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Và cho đến nay, các loại gốm Biên Hòa thời đó vẫn được xem là thứ của hiếm đối với những người chơi gốm cổ.

Biên Hòa được xem là nơi có trường dạy nghề gốm đầu tiên của Đông Dương, đó là Trường dạy nghề Biên Hòa (École Professionnelle de Bien Hoa) được thành lập vào năm 1903. Đến khoảng năm 1913, Trường đổi tên thành Trường Mỹ nghệ Bản xứ Biên Hòa (École d’Art indigène de Bien Hoa). Năm 1923, khi vợ chồng ông bà Robert Balick (Hiệu trưởng) và Mariette Balick (Trưởng Ban gốm) lãnh đạo trường có thể được coi là mốc lịch sử làm thay đổi về chất của gốm Biên Hòa. Bà Balick đã vạch hướng đi riêng cho Ban gốm. Đó là tập trung vào các dòng sản phẩm gốm trang trí nhiều màu sắc, hoa văn chạm khắc đặc sắc, màu men lạ. Đa số những men này được chế tạo từ nguyên liệu tự nhiên như tro rơm, tro lò, thủy tinh (mảnh), cát Đà Nẵng… Những loại men được bà Balick cùng các cộng sự người Việt tạo ra thời bấy giờ là men ta (men làm từ tro), men màu xanh đồng, men đá đổ (men làm từ đá ong Biên Hòa)…
Gốm mỹ nghệ Biên Hoà là một thương hiệu gốm lớn nổi danh châu Âu, châu Á từ hồi đầu thế kỷ 20. Năm 1925, các sản phẩm gốm của Trường Mỹ nghệ Bản xứ Biên Hòa tham dự cuộc triển lãm quốc tế tổ chức tại Paris đã gây tiếng vang lớn. Tất cả hàng gốm Biên Hòa đã bán sạch và còn nhận được nhiều đơn đặt hàng. Chính phủ Pháp đã tặng bằng khen danh dự tối ưu và Ban tổ chức triển lãm tặng huy chương vàng. Sau đó, ở cuộc triển lãm quốc tế tại Paris năm 1933, sản phẩm gốm Biên Hòa đã thực sự chiếm được vị trí của mình ở Pháp và thị trường gốm quốc tế. Sản phẩm của trường đã liên tục tham gia nhiều cuộc triển lãm lớn ở trong và ngoài nước như: Nagoya (Nhật Bản - 1937), Hà Nội (1938), Sài Gòn (1942), Bangkok (Thái Lan - 1953 và 1955), PhnomPenh (Campuchia - 1957). Từ đây bắt đầu cho một thời kỳ hưng thịnh và tiếng tăm của gốm Biên Hòa đến cuối thế kỷ 20.
Về thăm làng gốm
Hiện nay, nghề làm gốm ở Biên Hòa tập trung tại các phường Bửu Long, Tân Vạn, xã Tân Hạnh và Hóa An của thành phố Biên Hòa với hơn 40 cơ sở lớn nhỏ. Các cơ sở này mang tính gia đình theo kiểu cha truyền con nối. Các sản phẩm hầu hết đều được xuất khẩu ra nước ngoài.
Tại sao gốm Biên Hòa lại được thị trường quốc tế ưa chuộng như vậy? Ông Vòng Khiềng, Tổng Thư ký Hiệp hội Gốm mỹ nghệ Đồng Nai cho biết: "Gốm Biên Hòa đẹp và độc đáo từ chạm khắc đến nước men vì nó là sản phẩm giao thoa giữa ba dòng gốm của người Việt, người Hoa và người Chăm”. Có 2 dòng gốm chủ yếu hiện đang được các lò gốm sản xuất là gốm mỹ nghệ hoa văn đất trắng với kỹ thuật khắc chìm, vẽ hoa văn trực tiếp lên gốm và gốm đất đen được đốt ở nhiệt độ cao.

Chúng tôi đến lò gốm Phát Thành của nghệ nhân Nguyễn Hữu Tân ở phường Tân Vạn. Mỗi ngày lò gốm này cho ra lò khoảng 300 sản phẩm. Hơn 30 thợ gốm tham gia làm nhiều công đoạn. Mỗi người một việc để tạo ra những sản phẩm đẹp mắt. Dẫn chúng tôi đi tham quan cơ ngơi lò gốm rộng gần 5000 mét vuông chất đầy gốm với đủ loại mẫu mã khác nhau, nghệ nhân Nguyễn Hữu Tân cho biết: “Đây chỉ là một trong những lò gốm của tôi thôi. Ngày xưa, có thời điểm chúng tôi làm không kịp hàng giao cho thương lái. Gần 50 năm trong nghề gốm, tôi luôn tâm huyết vực dậy nghề truyền thống của cha ông để lại cho mình”.
Để có được nét đặc trưng của gốm Biên Hòa phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Kỹ thuật pha chế men là khâu rất quan trọng vì chính khâu này sẽ quyết định màu sắc trên sản phẩm. Chấm men cũng là khâu quan trọng, phải làm quen và đều tay, nếu không, khi nung sản phẩm sẽ bị méo mó, biến dạng. Chất liệu men cũng quan trọng chẳng kém. Gặp phải men xấu sẽ bị ảnh hưởng đến tính mỹ thuật của sản phẩm. Vì vậy, các cơ sở sản xuất gốm mỹ nghệ hơn thua nhau không những về mẫu mã mà còn về nước men. Chính vì vậy mà mỗi lò gốm đều giữ bí mật của riêng mình về kỹ thuật pha chế men gốm. Ngoài ra, khâu nung cũng là khâu quan trọng vì nó quyết định sự thành bại của cơ sở. Thợ nung phải là người dạn dày kinh nghiệm, họ xác định được nhiệt độ bằng mắt rất chính xác và từ đó điều tiết nhiệt độ một cách thích hợp trong lò nung.
 Gốm Biên Hòa vừa có giá trị nghệ thuật lại vừa có giá trị sử dụng cao. Những sản phẩm gốm mỹ thuật trang trí độc đáo, phong phú và đa dạng ở đủ mọi chủng loại như các loại đôn voi, đôn tròn, các loại chậu hoa, tượng, thú... với nét trang trí canh tân hiện đại, tinh tế, sử dụng men nhẹ lửa, màu men thanh thoát. Ngoài ra, Biên Hòa còn nổi tiếng bởi các sản phẩm gốm đất nung (gốm đỏ) không phủ men mang vẻ đẹp tự nhiên, rất được thị trường ưa chuộng. Hiện nay, các nghệ nhân và thợ gốm Biên Hòa đang phục hồi lại gốm men xanh đồng trổ bông nổi tiếng của gốm Biên Hòa xưa.
Ngày nay, nhiều gốm sứ Biên Hòa được đánh giá bởi các nhà sưu tập đồ cổ. Trường gốm vẫn tiếp tục phát triển. Lò đốt vẫn còn cháy ở các xã Hoà An, Vũ Hoà, Tân Vân và Tân Hạnh về phía nam thành phố Biên Hòa. Hàng trăm doanh nghiệp gốm sứ sản xuất hàng hoá được bán trên toàn quốc và xuất khẩu trên khắp thế giới.

Thứ Ba, 11 tháng 4, 2017

Chuyện làng gốm Nam Bộ

Chân thật, mộc mạc như chính tính cách, con người của người dân tại đây, gốm sứ Nam Bộ nổi tiếng khắp cả nước về chất lượng cũng như về độ tinh xảo của nghệ nhân. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, gốm Nam Bộ nói chung đã có tiếng  nói của riêng mình với những làng gốm nổi tiếng như Đồng Nai, Lái Thiêu – Bình Dương.v.v mang đầy nét đặc trưng văn hóa của quê hương. Hôm nay, người viết xin giới thiệu với các bạn lịch sử một số lò gốm điển hình với những bản sắc riêng mà không phải ai cũng biết…
Xóm lò gốm Sài Gòn xưa
Vốn là dòng gốm bình dị và phổ biến, nên từ dân thường đến nhà giàu có đều mua và dùng các loại sản phẩm gốm Nam bộ, từ gốm gia dụng đến đồ thờ cúng trong đình chùa, gốm trang trí kiến trúc...
Trên bản đồ Phủ Gia Định do Trần Văn Học vẽ năm 1815 có ghi địa danh "xóm Lò Gốm" - một trong những làng nghề nổi tiếng của Sài Gòn xưa, gồm các làng cổ Phú Giáo - gò Cây Mai, làng Phú Định - Phú Lâm, làng Hòa Lục... mà ngày nay thuộc các quận 6, 8 và 11. Khu vực này bây giờ vẫn còn kênh - rạch Lò Gốm và những địa danh liên quan đến nghề làm gốm như (đường) Lò Siêu, (đường) Xóm Đất, cầu Lò Chén...
Nghệ nhân đang tạo hình

Tên Lò Gốm được ghi trong Gia Định thành thông chí (1820): "Từ năm 1772 con kênh Ruột Ngựa được đào để nối liền từ Sa Giang ra phía bắc đến Lò Gốm". Như vậy, khu lò gốm chắc chắn đã khởi lập trước năm này. Dấu tích xóm Lò Gốm còn lại là khu vực gò Cây Mai (quận 11) và di tích lò gốm cổ Hưng Lợi (phường 16, quận 8).
Khai quật lò Hưng Lợi cho biết sản phẩm chủ yếu là đồ gia dụng: lu chứa nước (nên còn có tên là Lò Lu), các loại hũ men nâu men vàng, nhiều kiểu chậu, vịm (một loại chậu nhỏ), chậu bông... kích thước khác nhau.
Khoảng từ giữa thế kỷ 19, khu lò này sản xuất những sản phẩm in tên "Hưng Lợi diêu" (Lò Hưng Lợi) gồm các loại đồ "bỏ bạch" (bên ngoài không tráng men) như nồi có nắp và tay cầm (nồi lẩu), siêu nấu nước... Bên trong nồi và siêu có tráng men nâu chống thấm. Chậu bông bằng sành hình tròn hoặc hình lục giác, men nhiều màu, trang trí ô hoa văn bát tiên, tùng lộc, mai điểu...
Từ đầu thế kỷ 20 sản xuất các loại bát, đĩa, ấm, ly uống trà, chai, muỗng, bình rượu, lư hương, thố có nắp... men trắng vẽ men lam. Ngoài ra còn sản xuất loại chai gốm men trắng giống như chai thủy tinh. Sản phẩm lò Hưng Lợi được nặn tay, in khuôn, kết hợp bàn xoay, hoa văn cũng được in khuôn, đắp nổi, chạm khắc, sau đó phủ hoặc tô men nhiều màu, thường là màu xanh đồng, xanh lam, nâu hay đỏ.
 Dấu tích khu lò gốm Cây Mai (nằm ở sau chùa Cây Mai) nay vẫn còn. Lò này làm các loại đồ gốm thông dụng kích cỡ lớn, sản phẩm trang trí mỹ thuật, tượng đất nung và đồ sành men màu. Các sản phẩm độc đáo và đặc trưng của gốm Cây Mai sản xuất vào cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20 là gốm men nhiều màu như trắng, xanh lam, xanh lục, nâu, vàng... gồm nhiều kiểu tô, chén, đĩa, muỗng, bình, cốc, đôn, chậu kiểng, lư hương, bát nhang, tượng thờ; gốm trang trí kiến trúc như long (rồng), voi, ngựa và các quần thể tiểu tượng.
Nghệ nhân đang nung gốm


Trên nhiều đồ gốm Sài Gòn còn ghi năm sản xuất và tên điếm (tiệm), diêu (lò) như: tượng Giám Trai ở chùa Giác Viên (quận 11), góc dưới bên phải có ghi "Đề ngạn, Nam Hưng Xương, Điếm Tố", "Canh Thìn Trọng Đông Cát Đán Lập" (1880).
Ở miếu Thiên Hậu (Quảng Triệu hội quán - quận 1) trên quần thể tiếu tượng gốm ở phần sân miếu có những bảng gốm chữ nổi "Lương Mỹ Ngọc điếm tạo" (tiệm Lương Mỹ Ngọc tạo), "Quang Tự Thập Tam Niên" (1887) và "Thạch Loan Mỹ Ngọc tạo" (lò Mỹ Ngọc ở Thạch Loan tạo), "Quang Tự Đinh Hợi Tuế (1887). Cũng ngay trên quần thể tiếu tượng này còn có những bảng gốm khác ghi "Đề Ngạn Bửu Nguyên Diêu tạo" (lò Bửu Nguyên ở Đề Ngạn làm)...
Chữ Diêu còn gặp ở một số di tích khác như ở đình Minh Hương Gia Thạnh (quận 5), trên quần thể tiếu tượng bằng gốm có ghi "Mai Sơn, Đồng Hòa Diêu Tạo" (lò Đồng Hòa - Mai Sơn tạo)...
Hiện nay, sản phẩm gốm Cây Mai vẫn còn được lưu giữ trong dân gian, ở các đình miếu, hội quán Nam bộ với các sản phẩm dân dụng như: ơ, siêu, bát, bình, lu, hũ, thống có nắp, khạp có nắp, chậu tròn, chóe có quai, đôn tròn, đôn lục giác, lân, gạch trang trí hình vuông...
Những dòng men màu bình dị
Từ khoảng đầu thế kỷ 20, vùng Sài Gòn - Chợ Lớn đô thị hóa khá nhanh, khu vực xóm Lò Gốm mất dần ưu thế so với vùng gốm Biên Hòa, Lái Thiêu. Trường Mỹ nghệ Biên Hòa thành lập vào năm 1903 đã tập hợp được nhiều nghệ nhân làm gốm. Dần dần gốm Biên Hòa trở nên nổi tiếng.
Gốm Biên Hòa thiên về trang trí hoa văn dày đặc, bao quanh sản phẩm bằng phương pháp vẽ nét chìm hoặc lấy nét chìm kết hợp với trổ thủng để tạo hoa văn, sau đó tô men, không phân biệt giữa men và màu ve. Hoa văn trang trí hình rồng hay cúc hóa long, hoa mai... khá đặc sắc.
Sản phẩm gốm Biên Hòa đa dạng bao gồm bình bông, hũ, lọ, chóe, chậu, đôn, đôn voi, bộ bàn ghế tròn, đèn lồng, đĩa trang trí, tượng voi, tượng lân, tượng người... Loại chóe men đen hoặc men nâu hoa văn khắc chìm sản xuất ở Biên Hòa còn cung cấp cho nhiều khu vực ở Tây nguyên. Một loại sản phẩm gốm Biên Hòa vẫn được sản xuất nhiều là các loại lu đựng nước bằng đất nung không men. Cho đến nửa sau thế kỷ 20 gốm mỹ nghệ Biên Hòa vẫn được xuất khẩu đi Liên Xô và nhiều nước Đông Âu.
Gốm sứ Lái Thiêu ra đời khoảng giữa thế kỷ 19, có các trường phái (theo nguồn gốc của các chủ lò gốm) như trường phái Quảng Đông sử dụng men nhiều màu chuyên sản xuất các tượng trang trí, các loại chậu, các loại đôn voi; trường phái Triều Châu sử dụng men xanh trắng chuyên sản xuất đồ gốm gia dụng như chén, đĩa, tô và các loại bình trà, bình rượu; trường phái Phúc Kiến sử dụng men màu đen, men da lươn, chuyên sản xuất chóe, lu, vại, hũ, vịm.
Trong đó, gốm men nhiều màu Lái Thiêu được sản xuất hàng loạt, hiện còn lưu giữ khá nhiều trong dân gian, tại các bảo tàng cũng như trong các sưu tập tư nhân. Gốm men nhiều màu Lái Thiêu với nguồn nguyên liệu địa phương kết hợp với kỹ thuật truyền thống của người Hoa và cả người Việt đã tạo nên một dòng gốm men nhiều màu rất bình dị, dân dã mà cũng rất thanh thoát, độc đáo.
Hoa văn trang trí trên gốm Lái Thiêu có nhiều dạng khác nhau, thường theo xu hướng đồ án hóa, đường nét to, thô nhưng không vì thế mà kém trau chuốt, sinh động. Nội dung tranh vẽ lấy hoa lá làm thể chính, chiếm số lượng nhiều nhất là đồ án hoa mẫu đơn được bố cục chặt chẽ: mẫu đơn với chữ thọ, mẫu đơn kê (hoa mẫu đơn với gà trống), mẫu đơn điểu (hoa mẫu đơn với chim). Ngoài ra còn có các đồ án: tùng hạc, hoa lan, hồng điệp (hoa hồng với bươm bướm), lý ngư (cá chép), và vẽ sơn thủy phong cảnh hữu tình... Đặc biệt đồ án tranh "cát tường" với hình ảnh con gà trống trên tô, đĩa... đã trở thành thương hiệu của gốm men màu Lái Thiêu.
Trưng bày gốm Lái Thiêu
Thị trường của gốm Nam bộ là cả miền Đông và Tây Nam bộ, thậm chí cả một phần Tây nguyên và Campuchia. Trong nửa đầu thế kỷ 20, khi thương nghiệp Nam - Bắc phát triển mạnh thì gốm Nam bộ còn theo chân các thương nhân ra miền Bắc, miền Trung, có mặt trong nhiều nhà giàu có và một số đình chùa... Nếu không xuất phát từ đặc điểm lịch sử - xã hội và đặc trưng văn hóa Nam bộ để nghiên cứu, dễ quan niệm rằng gốm Nam bộ không có giá trị đặc biệt vì niên đại muộn và tính mỹ thuật không cao do quá... bình dân.
Lời kết

Một số nhà sản xuất và xuất khẩu tích cực tìm kiếm thị trường mới, đưa thương hiệu và sản phẩm của họ thành công rộng ra cho các khu vực, góp phần ổn định tổng doanh thu xuất khẩu của cả nước từ gốm sứ. Hơn nữa, với chi phí xây dựng thương hiệu cao và phát triển trên thị trường quốc tế, nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn đầu tư nhiều hơn để đưa sản phẩm của mình đến với khách hàng nước ngoài. Do đó, nhiều khách hàng mới ở nước ngoài đang dần dần nhận ra những sản phẩm gốm sứ Việt Nam có đặc điểm độc đáo, và vô cùng hữu dụng.